Rối loạn tâm thần trên bệnh nhân động kinh
Với khái niệm rối loạn tâm thần trong động kinh, ta có thể hiểu đó là các biểu hiện rối loạn chức năng tâm lý của bệnh nhận động kinh nói chung. Hơn nữa, rối loạn tâm thần là hậu quả của một quá trình bệnh lý lâu dài gây ra. Biểu hiện chủ yếu của rối loạn tâm thần trong ĐK được nhiều tác giả đề cập đến, đó là rối loạn về trí tuệ, cảm xúc, tư duy và nhân cách.
1 Rối loạn cảm xúc
Rối loạn cảm xúc ở bệnh nhân ĐK thường biểu hiện bằng trạng thái cảm xúc không ổn định, hay có cơn bùng nổ cảm xúc. Bệnh nhân thường hay bi quan, mặc cảm, tự ti. Yếu tố cảm xúc đóng vai trò rất quan trọng trong bệnh ĐK. Các tác giả nhận thấy rằng cơn ĐK thường xuất hiện hoặc cơn ĐK xuất hiện dày hơn khi gặp yếu tố cảm xúc không thuận lợi như các stress tâm lý. Thời gian mắc bệnh càng kéo dài thì rối loạn cảm xúc càng sâu sắc. Ở những bệnh nhân có biểu hiện loạn khí sắc dễ xuất hiện hành vi hung bạo hay hành động dã man, mang tính chất cầm thú.
2 Rối loạn tư duy
Biểu hiện rối loạn tư duy ở bệnh nhân ĐK được thể hiện cả về hình thức và nội dung tư duy. Thường gặp là rối loạn nhịp điệu ngôn ngữ chậm, chủ yếu là tư duy lai nhai (pensée circonstanciée) cùng với các định kiến sâu sắc (idees fixes). Rối loạn tư duy cùng với phản ứng cảm xúc mãnh liệt tạo ra cho bệnh nhân một ý tưởng quá đáng, hay đau khổ, bực tức, hay thù vặt và tìm mọi cách trả thù.
3 Rối loạn nhân cách
Biến đổi nhân cách là hiện tượng thường gặp ở bệnh nhân ĐK. Đôi khi rối loạn nhân cách còn quan trọng hơn cả các cơn co giật và các rối loạn khác.
Trẻ em ĐK thường có các rối loạn về cư xử, khó thích ứng, dễ gây hấn, nóng nảy, hay gia tăng hoạt động quá mức. Người bệnh trở lên ích kỷ, cô độc. Sự biến đổi tính nết theo hai thái cực khác nhau khi thì niềm nở, cởi mở, hiền hậu, khi thì độc ác, thô bạo.
Ở người ĐK trưởng thành, rối loạn nhân cách chậm chạp hơn, nhiều khi khó nhận thấy. Thường thấy bệnh nhân trở nên ích kỷ, thu hẹp phạm vi thích thú. Griesinger nhận thấy ở bệnh nhân này mất đi màu sắc phong phú và tình cảm trở lên khô lạnh. Tính cách của họ mang tính chất giả tạo. Thường bên ngoài thì niềm nở, lịch thiệp, dịu dàng nhưng ngược lại bên trong thì lạnh nhạt bàng quan cùng với ý nghĩ độc ác, thù vặt và luôn tìm cách trả thù bằng các hành vi xung động cùng với cảm xúc mãnh liệt. Đây được gọi là nhân cách bùng nổ hay nhân cách ĐK.
4 Rối loạn trí tuệ
Rối loạn trí tuệ không phải là triệu chứng thường gặp trong bệnh ĐK. Các rối loạn trí tuệ thường gặp ở những bệnh nhân có thời gian mắc bệnh lâu, tổn thương thực thể não nặng nề và đặc biệt là ở trẻ em. Trẻ mắc bệnh ĐK càng sớm thì mức độ rối loạn trí tuệ càng nặng nề. Theo thống kê của nhiều tác giả thì tỉ lệ người mắc bệnh ĐK bị thiểu năng tâm trí là 36% trong đó có tới 14% ở mức độ nặng và trung bình, 22% ở mức độ nhẹ. Tỉ lệ này cao hơn ở các bệnh nhân ĐK triệu chứng, các bệnh nhân mắc bệnh ở tuổi nhỏ, cơn ĐK xuất hiện dày.
5 Điều trị
5.1 Một số đặc điểm về điều trị
Điều trị ĐKTT về cơ bản tuân theo các nguyên tắc và yêu cầu của điều trị ĐK nói chung. Đa số các tài liệu kinh điển không tách riêng phần điều trị ĐKTT. Song do tính chất đặc biệt của ĐKTT và các RLTT trong ĐK, gần đây nhiều tác giả cũng đề cập đến một số điểm khác biệt trong điều trị. Ở một số thể ĐKTT, bệnh nhân trong cơn có thể gây nguy hiểm cho bản thân và người xung quanh. Vì vậy việc chẩn đoán và điều trị tốt nhất nên tiến hành ở khoa tâm thần. Đôi khi phải áp dụng các biện pháp theo dõi và quản lý đặc biệt.
5.2 Điều trị bằng thuốc chống động kinh
H.A.F.Schulze (1979) khuyên nên chọn một trong 2 thuốc Phenytoin hoặc carbamazepin trong điều trị ĐKTT.H. Rennert (1979) xếp 3 thứ thuốc hàng đầu có tác dụng điều trị ĐKTT là carbamazepin, phenytoin và depakin; tiếp đến là các thuốc có tác dụng điều trị, song kém hơn là: primidon, sultiam, diazepam và clorazepam. Các thuốc thuộc họ barbituric, ethosuximid và nitrazepam được xem là có tác dụng nghi ngờ.
5.3 Điều trị kết hợp bằng các thuốc hướng tâm thần
Nhiều tác giả khuyên nên điều trị ĐKTT vận động bằng gacdenan phối hợp với aminazin liều thấp (25-50mg trong 24 giờ). V.A.Karlov cũng đề nghị áp dụng aminazin (hoặc tisercin, triphtazin) với các thể có loạn cảm hoặc trạng thái ý thức hoàng hôn có biểu hiện hưng phấn. Song cần chú ý là nên cho thuốc chống ĐK trước để đạt tác dụng chế ngự cơn ĐK, các thuốc trên phối hợp như sau:
Khi có biểu hiện rối loạn khí sắc nên kết hợp với diazepam hoặc valium nhất là khi kèm trạng thái lo âu.
Haloperidol, trisedil được chỉ định kết hợp điều trị khi có biểu hiện loạn cảm kèm theo hoang tưởng và ảo giác.
5.4 Điều trị bằng bơm khí não (pneumo encephalotherapy)
Mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau, song trong tài liệu và thực tế lâm sàng, nhận thấy việc bơm không khí vô trùng (hoặc oxy) vào khoang dưới nhện theo phương pháp của Kamianov (1978) và Geinisman có tác dụng điều trị ĐK, đặc biệt với các thể ĐK sau chấn thương sọ não hoặc sau viêm dính mạng nhện. Phương pháp được chỉ định trong các thể ĐKTT mà thuốc tác dụng kém.
Trả lời