Rối loạn trầm cảm
- Khái niệm
Trầm cảm là một bệnh lý của cảm xúc, biểu hiện bằng quá trình ức chế toàn bộ các hoạt động tâm thần: chủ yếu ức chế cảm xúc, ức chế tư duy, ức chế vận động.
Theo DSM-5 (2013), rối loạn trầm cảm bao gồm trầm cảm chủ yếu, loạn khí sắc, trầm cảm do một chất và trầm cảm do một bệnh thực tổn.
Rối loạn trầm cảm chủ yếu được đặc trưng bởi một hay nhiều giai đoạn trầm cảm, bệnh nhân phải có ít nhất 5 triệu chứng chủ yếu và hay gặp, trong đó có ít nhất 1 trong 2 triệu chứng chủ yếu là khí sắc giảm và mất hầu hết các hứng thú/sở thích. Các giai đoạn trầm cảm phải kéo dài ít nhất 2 tuần. Bệnh nhân không được có tiền sử lạm dụng chất (rượu, ma túy, thuốc) và chấn thương sọ não.
Trầm cảm do một chất được đặc trưng bởi một hay nhiều giai đoạn trầm cảm là hậu quả trực tiếp của việc sử dụng một chất (rượu, ma túy, corticoid).
Trầm cảm do một bệnh cơ thể được đặc trưng bởi một hay nhiều giai đoạn trầm cảm là hậu quả trực tiếp của một bệnh cơ thể gây ra (viêm loét dạ dày- hành tá tràng, viêm đa khớp dạng thấp, cao huyết áp, đái tháo đường…).
- Dịch tễ học
– Tỷ lệ mắc bệnh
Các nghiên cứu về rối loạn trầm cảm đã cho thấy nguy cơ bị bệnh này trong toàn bộ cuộc đời là 10%-25% cho nữ và 5%-12% cho nam.
Theo DSM-5 (2013), tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm trong 12 tháng ở Mỹ là 7% dân số và 1,5% dân số Mỹ có đủ tiêu chuẩn chẩn đoán cho trầm cảm mạn tính. Tỷ lệ loạn khí sắc ở Mỹ là 0,5% dân số.
Theo Sadock B. J. (2007), rối loạn trầm cảm gặp ở 10% tổng số bệnh nhân đi khám bệnh và chiếm 15% tổng số các bệnh nhân phải nằm điều trị.
– Giới tính
Ở hầu hết các quốc gia, không phân biệt về văn hóa, đều thấy tỷ lệ trầm cảm ở nữ cao hơn ở nam từ 1,5 đến 3 lần. Lý do của sự khác biệt này có thể do khác nhau về hormon và do phụ nữ phải sinh con. Ở tuổi thiếu niên thì nam và nữ có tỷ lệ trầm cảm như nhau.
– Tuổi: trầm cảm có thể gặp ở bất cứ lứa tuổi nào, từ vị thành niên đến người già, nhưng trầm cảm hay gặp nhất là độ tuổi 40. Tỷ lệ bệnh nhân trầm cảm là thanh niên và vị thành niên đang tăng lên, nguyên nhân là do lạm dụng rượu, ma túy và đặc biệt là game điện tử.
– Tình trạng hôn nhân: nhìn chung trầm cảm hay gặp hơn ở người còn độc thân, góa, li dị. Các công trình nghiên cứu gần đây chứng minh rằng kết hôn làm cho tình trạng trầm cảm giảm đi cả ở hai giới.
– Tình trạng kinh tế văn hóa: không có mối liên hệ rõ ràng nào giữa yếu tố kinh tế, văn hóa với trầm cảm. Nghĩa là trầm cảm là giống nhau ở tất cả các tầng lớp trong xã hội.
- Bệnh sinh trầm cảm
– Chất dẫn truyền thần kinh: trầm cảm là do giảm nồng độ serotonin ở khe xi náp của vỏ não. Nồng độ serotonin của bệnh nhân có thể chỉ còn bằng 30% người bình thường.
– Gen di truyền được coi là đóng vai trò rất quan trọng trong bệnh sinh của trầm cảm. Chính các rối loạn về gen di truyền đã khiến cho việc sản xuất serotonin trong não bị giảm sút, từ đó gây ra trầm cảm.
– Vai trò của chấn thương tâm lý là không rõ ràng trong bệnh sinh của trầm cảm. Nhiều tác giả coi chấn thương tâm lý chỉ là yếu tố thuận lợi cho khởi phát và tái phát lần thứ nhất của trầm cảm mà thôi.
- Triệu chứng
Giai đoạn trầm cảm cần kéo dài ít nhất 2 tuần, trong đó phải có ít nhất là một trong hai triệu chứng chủ yếu là khí sắc giảm hoặc là mất hứng thú/sở thích cho hầu hết các hoạt động. Ở trẻ em và vị thành niên khí sắc có thể bị kích thích hơn là buồn. Tương tự như vậy, bệnh nhân cần biểu hiện ít nhất 4 triệu chứng trong dãy triệu chứng bao gồm thay đổi cảm giác ngon miệng hoặc khối lượng cơ thể, giấc ngủ và hoạt động tâm thần vận động, giảm sút năng lượng, cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi, khó suy nghĩ, tập trung hoặc ra quyết định, ý nghĩ tái diễn về cái chết hoặc ý nghĩ, kế hoặch và hành vi tự sát. Để xác định một giai đoạn trầm cảm chủ yếu, một triệu chứng cần được biểu hiện gần đây một cách rõ ràng khi so sánh với trạng thái trước khi bị bệnh của bệnh nhân. Các triệu chứng cần bền vững phần lớn thời gian trong ngày, gần như hàng ngày trong thời gian ít nhất là 2 tuần liên tiếp. Giai đoạn trầm cảm cần được phối hợp với biểu hiện lâm sàng rõ ràng trong lĩnh vực xã hội, nghề nghiệp hoặc trong các lĩnh vực quan trọng khác. Ở một số bệnh nhân có các giai đoạn nhẹ, chức năng còn ở phạm vi bình thường, nhưng cần một sự cố gắng đáng kể.
– Khí sắc giảm
– Mất hứng thú hoặc sở thích cho hầu hết các hoạt động.
– Mất cảm giác ngon miệng, ăn ít hoặc sút cân.
– Mất ngủ, nhưng cũng có thể bệnh nhân ngủ quá nhiều.
– Rối loạn hoạt động tâm thần vận động
– Giảm sút năng lượng
– Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi
– Khó suy nghĩ, tập trung hoặc ra quyết định
– Ý nghĩ muốn chết hoặc có hành vi tự sát.
Để xác định một giai đoạn trầm cảm chủ yếu, các triệu chứng cần được biểu hiện một cách rõ ràng khi so sánh với trạng thái trước khi bị bệnh của bệnh nhân. Ví dụ trước khi bị trầm cảm, bệnh nhân ngủ được 8 giờ một đêm. Nhưng hiện nay bệnh nhân chỉ ngủ được khoảng 1-2 giờ một đêm và cảm thấy rất mệt mỏi khi ngủ dậy. Các triệu chứng cần bền vững phần lớn thời gian trong ngày, diễn ra gần như hàng ngày trong thời gian ít nhất là 2 tuần liên tiếp.
Chẩn đoán một giai đoạn trầm cảm chủ yếu không được đặt ra nếu như các triệu chứng thoả mãn các tiêu chuẩn cho một giai đoạn hỗn hợp. Một giai đoạn hỗn hợp được đặc trưng bởi sự xuất hiện cả các triệu chứng hưng cảm và trầm cảm trong cùng một thời gian, xuất hiện gần như hàng ngày trong thời gian ít nhất là một tuần. Trong giai đoạn hỗn hợp, có thể cùng một lúc bệnh nhân có cả các triệu chứng của hưng cảm và trầm cảm (bệnh nhân hưng phấn vận động, hưng phấn cảm xúc nhưng lại mệt mỏi nhiều và chán ăn…). Hay gặp hơn là các triệu chứng trầm cảm và hưng cảm luân phiên, thay thế nhau nhanh chóng. Ví dụ: buổi sáng bệnh nhân có các triệu chứng trầm cảm (mệt mỏi, chán ăn, bi quan, ức chế vận động…), nhưng buổi chiều lại có các triệu chứng của hưng cảm (hưng phấn tư duy, vui vẻ, yêu đời, cảm thấy hoàn toàn khỏe mạnh…).
Giai đoạn trầm cảm ảnh hưởng rõ ràng đến các hoạt động trong xã hội, nghề nghiệp hoặc trong các lĩnh vực quan trọng khác. Một số bệnh nhân bị trầm cảm nhẹ, chức năng còn tương đối bình thường, nhưng cần một sự cố gắng đáng kể (họ vẫn đi học và đi làm, nhưng phải cố gắng rất nhiều và kết quả công việc cũng không được như trước kia).
Mức độ biểu hiện của một giai đoạn trầm cảm khác nhau. Trong một số trường hợp nhẹ, bệnh nhân cũng có các biểu hiện lâm sàng rõ ràng ảnh hưởng đến công việc của bệnh nhân. Trong trường hợp quá nặng, bệnh nhân có thể mất khả năng tự chăm sóc tối thiểu (ví dụ: tự ăn, tự mặc quần áo) hoặc mất khả năng làm vệ sinh cá nhân tối thiểu.
Khi khám bệnh, thầy thuốc cần hỏi bệnh nhân và gia đình họ các thông tin nhằm xác định xem bệnh nhân đã từng có các giai đoạn hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ trong tiền sử hay không? Tuy nhiên, các giai đoạn trầm cảm có thể phát triển từ từ, qua nhiều giai đoạn. Lúc đầu, có thể bệnh nhân chỉ than phiền mệt mỏi, sau một thời gian họ lại hay bị mất ngủ. Sau đó, các triệu chứng khác của trầm cảm lần lượt xuất hiện như đau đầu, đánh trống ngực, chán ăn, đau vùng thượng vị. Vì thế bệnh nhân hay đi khám bệnh tại các chuyên khoa không phải là tâm thần như tim mạch, tiêu hoá, thần kinh… Khi các triệu chứng của trầm cảm đã xuất hiện đầy đủ và rầm rộ, người bệnh mới được khuyên đi khám bệnh tại chuyên khoa tâm thần.
Đánh giá các triệu chứng của một giai đoạn trầm cảm chủ yếu là rất khó khi bệnh nhân có một bệnh cơ thể (ung thư, nhồi máu cơ tim, đái đường). Ví dụ: trong bệnh đái đường bệnh nhân luôn mệt mỏi, sút cân. Các triệu chứng này là hậu quả tất yếu của bệnh đái đường, vì thế không được tính là triệu chứng trầm cảm.
- Chẩn đoán
4.1 Tiêu chuẩn chẩn đoán cho một giai đoạn trầm cảm chủ yếu theo ICD 10
– Có ít nhất 2 trong 3 triệu chứng chủ yếu là:
a/ Khí sắc trầm cảm.
b/ Mất mọi quan tâm và thích thú.
c/ Giảm năng lượng dẫn đến mệt mỏi và giảm hoạt động.
– Có ít nhất 3 triệu chứng phổ biến khác là:
a/ Giảm tập trung chú ý.
b/ Giảm tự trọng và lòng tự tin.
c/ Những ý tưởng bị tội và không xứng đáng.
d/ Nhìn tương lai ảm đạm và bi quan.
e/ Có ý tưởng và hành vi tự sát.
f/ Rối loạn giấc ngủ.
g/ ăn không ngon miệng.
– Chú ý:
+ Thời gian tồn tại ít nhất là 2 tuần.
+ Không phải lầ hậu quả của nghiện rượu, ma túy, chấn thương sọ não.
+ Mức độ nặng của trầm cảm:
. Trầm cảm nhẹ: có 5-6 triệu chứng (vừa đủ chẩn đoán trầm cảm), các chức năng xã hội, nghề nghiệp bị ảnh hưởng nhưng chưa trầm trọng.
. Trầm cảm vừa: có 7-8 triệu chứng, các chức năng xã hội nghề nghiệp bị ảnh hưởng rất rõ ràng.
. Trầm cảm nặng: có 9-10 triệu chứng, các chức năng xã hội, nghề nghiệp của bệnh nhân bị ảnh hưởng trầm trọng. Trầm cảm nặng được chia thành:
* Trầm cảm nặng không loạn thần
* Trầm cảm nặng có loạn thần: loạn thần phù hợp với khí sắc (hoang tưởng nghi bệnh, hoang tưởng tự buộc tội), loạn thần không phù hợp với khí sắc (hoang tưởng bị hại, hoang tưởng bị chi phối).
- Điều trị
6.1 Thuốc chống trầm cảm 3 vòng
Ngày nay, thuốc chống trầm cảm 3 vòng và 4 vòng vẫn là thuốc hay được sử dụng nhất trong điều trị trầm cảm. Trong nhóm thuốc chống trầm cảm 3 vòng, amitriptilin là thuốc hay được dùng nhất do có hiệu quả điều trị trầm cảm tốt và rẻ tiền.
Thuốc chống trầm cảm 3 vòng (TCA) tác dụng trên cả hệ thống norepinephrin và serotonin và các hệ thống dẫn truyền thần kinh khác như acetylcholin, histamin, epinephrin, dopamin, muscarin nên ngoài tác dụng chống trầm cảm, thuốc còn có rất nhiều tác dụng phụ.
Hiệu quả điều trị chống trầm cảm của thuốc TCA liên quan chặt chẽ đến ức chế thụ cảm thể serotonin và norepinephrin. Thuốc chống trầm cảm 3 vòng chỉ định tốt hơn thuốc SSRI trong các trường hợp trầm cảm có nhiều triệu chứng cơ thể (mất ngủ, chán ăn, mệt mỏi, đau đầu, đau bụng, đau khớp…).
Hiệu quả chống trầm cảm của thuốc TCA xuất hiện sau 2-4 tuần, trong giai đoạn này không thay đổi thuốc chống trầm cảm và nên cho bệnh nhân biết về những điều này để họ hợp tác với bác sỹ tốt hơn trong điều trị.
Tác dụng phụ của thuốc
– Khô miệng, táo bón, rối loạn thị giác, rối loạn tiểu tiện (khó đi tiểu), rối loạn nhận thức ở người già.
– Giảm huyết áp tư thế đứng gây chóng mặt, buồn nôn. Đây là tác dụng phụ gây cảm giác rất khó chịu, khó quen được.
– Gây độc cho cơ tim (do ức chế của thuốc TCA trên hệ cholin, noradrenalin và adrenalin). Nhiễm độc cơ tim thể hiện trên điện tim là PQ kéo dài, sóng QT và sóng T có biên độ thấp.
– Gây dị ứng trên da, phù.
– An dịu (buồn ngủ), giảm khả năng nhận thức, hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ, giảm ngưỡng co giật trong động kinh.
– Tăng thể trọng.
– Giảm ham muốn tình dục ở phụ nữ, giảm ham muốn tình dục, giảm khả năng cương dương và gây chậm xuất tinh ở nam.
Để hạn chế tác dụng phụ của thuốc TCA, người ta khuyên nên dùng kết hợp với piracetam.
Thuốc chống trầm cảm 3 vòng hay dùng
– Amitriptylin (elavil) 25mg. Liều dùng 75-200 mg/ngày
– Clomipramin (anafranil, clomidep) 25mg/75mg. Liều dùng 75-200 mg/ngày
6.2 Thuốc chống trầm cảm đa vòng
– Nhóm thuốc chống trầm cảm đa vòng có hiệu quả điều trị trầm cảm tương đương với nhóm thuốc chống trầm cảm 3 vòng, nhưng ít tác dụng phụ và được dung nạp tốt hơn.
– Tác dụng phụ chủ yếu là an dịu, vì vậy thuận lợi cho bệnh nhân mất ngủ nhiều.
– Thuốc ít độc với cơ tim nên có thể dùng cho bệnh nhân cao tuổi, có bệnh tim và cao huyết áp.
– Mirtazapin (remeron, tzap, tazimed, noxibel)
Viên nén 30 mg, liều dựng 15-45 mg/ngày. Trung bình dùng 30 mg/ngày.
– Venlafaxin (effexor, veniz). Viên nén, viên nhộng 25 mg, 37,5 mg, 50 mg, 75 mg, 100 mg, 150 mg. Thuốc có tác dụng sớm nhưng thời gian bán hủy nhanh. Liều trung bình là 75 mg/ngày.
6.3 Thuốc chống trầm cảm ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin (SSRI)
– Là thuốc chống trầm cảm mới tác động chọn lọc trên hệ serotonin. Hầu như không có tác dụng trên các hệ dẫn truyền thần kinh khác, thuốc dung nạp tốt và rất ít tác dụng phụ.
– Ưu điểm :
+ Hiệu quả chống trầm cảm ngang với thuốc chống trầm cảm 3 vòng, nhưng không nhiều tác dụng phụ như thuốc chống trầm cảm 3 vòng.
+ An toàn hơn trong trường hợp quá liều. Đến nay vẫn chưa xác định được liều chết của các thuốc SSRI trên người. Nếu bệnh nhân uống thuốc quá liều cũng không gây ra nguy hiểm nhiều.
+ Thuốc dung nạp tốt, không độc với cơ tim, có thể dùng cho người già. Tác dụng phụ chủ yếu là trên hệ tiêu hóa (đầy bụng, nôn, buồn nôn, chán ăn), trên chức năng tình dục (giảm ham muốn tình dục, khó cường dương) hay gặp nhất là fluoxetin, ít gặp nhất là với fluvoxamin. Ngoài ra thuốc còn gây đau đầu, mất ngủ, lo âu, run đầu chi trong thời gian đầu dùng thuốc. Các tác dụng phụ này thường hết sau 1-2 tuần điều trị.
– Fluoxetin (prozac, oxeflu, oxedep)
Thuốc đóng viên nén hoặc viên nhộng 20 mg.
Liều thuốc dùng điều trị chống trầm cảm là 20-40 mg/ngày, uống 1 lần duy nhất vào sau bữa ăn sáng.
– Fluvoxamin (luvox)
Thuốc đóng viên nén 100 mg. Thời gian bán hủy của thuốc chỉ có 17 giờ, vì thế có thể dùng 1-2 lần/ngày. Liều dùng 100-200 mg/ngày, chia làm 1-2 lần.
– Paroxetin (wicky, xalexa, pharmapar)
Thuốc đóng dạng viên nén 20 mg và 30 mg. Liều dùng 20-40 mg/ngày.-
– Sertralin (zoloft, serenata, utralene)
Viên nén 50 mg và 100 mg. Liều dùng 50-200 mg/ngày. Trung bình là 100 mg/ngày.
– Cytalopram (citopam)
Viên nén hoặc viên nhộng 10, 20, 40 mg .Liều dùng 60 mg/ngày.
6.4 Những điều cần lưu ý khi điều trị bằng thuốc chống trầm cảm
– Thời gian điều trị tấn công bằng thuốc chống trầm cảm là 4-8 tuần (với đầy đủ liều). Khi các triệu chứng trầm cảm đã được khắc phục cơ bản, nên giảm dần đến liều duy trì (bằng 1/2 đến 2/3 liều tấn công) để chuyển sang điều trị củng cố cho đủ thời gian.
– Theo lý thuyết, tất cả các thuốc chống trầm cảm đều có tác dụng ngang nhau. Lựa chọn thuốc căn cứ vào:
+ Loại rối loạn trầm cảm. Các bệnh nhân trầm cảm có cơn trầm cảm với nhiều triệu chứng cơ thể, có lo âu kết hợp nên điều trị bằng thuốc chống trầm cảm 3 vòng. Còn trầm cảm có ức chế cảm xúc, vận động rõ ràng và cơn trầm cảm ở người cao tuổi thì nên dựng thuốc chống trầm cảm nhóm SSRI.
+ Đáp ứng điều trị với các thuốc chống trầm cảm trước đây. Nếu trong cơn trầm cảm trước đây, bệnh nhân đáp ứng tốt với fluoxetin thì lần này cũng nên dùng fluoxetin.
+ Căn cứ vào tác dụng phụ của thuốc chống trầm cảm.
– Các trường hợp cơn trầm cảm nhẹ và trung bình mà không có ý định và hành vi tự sát có thể được điều trị ngoại trú.
– Trầm cảm có ý định tự sát, trầm cảm nặng, trầm cảm có loạn thần, trầm cảm căng trương lực phải được điều trị nội trú tại bệnh khoa tâm thần.
– Nếu bệnh nhân có nhiều triệu chứng lo âu, có thể dùng thuốc chống trầm cảm phối hợp với thuốc benzodiazepin trong thời gian đầu dùng thuốc (2-4 tuần).
– Trầm cảm có loạn thần cần điều trị kết hợp với thuốc an thần hoặc sốc điện.
– Trầm cảm mạn tính cần điều trị bằng thuốc chống trầm cảm kết hợp với thuốc chỉnh khí sắc (carbamazepin, valproat).
– Khi bệnh nhân có nguy cơ tự sát, cần điều trị bằng thuốc chống trầm cảm có rất ít hoặc không độc với cơ tim (tránh bị bệnh nhân tích thuốc để tự tử).
6.5 Sử dụng thuốc an thần trong cơn trầm cảm
Trong nhiều trường hợp, bệnh nhân có giai đoạn trầm cảm chủ yếu cần kết hợp giữa thuốc chống trầm cảm và thuốc an thần để điều trị, đó là các trường hợp sau
– Trầm cảm có loạn thần và trầm cảm căng trương lực.
– Trầm cảm có ý định và hành vi tự sát.
– Trầm cảm không tiếp xúc.
– Trầm cảm từ chối ăn uống.
– Giai đoạn trầm cảm có nhiều triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật như có cơn nóng bừng hoặc lạnh buốt, đánh trống ngực, ra nhiều mồ hôi, ăn mất ngon…
6.6 Sốc điện
Sốc điện là liệu pháp điều trị có hiệu quả nhất cho giai đoạn trầm cảm. Đây là liệu pháp rất an toàn, cho kết quả tốt cả khi dùng thuốc chống trầm cảm đó thất bại (kháng thuốc).
6.7 Điều trị bằng tâm lý
– Liệu pháp nhận thức
+ Được chỉ định trong điều trị giai đoạn trầm cảm nhẹ và vừa.
+ Có thể kết hợp liệu pháp này với thuốc chống trầm cảm trong điều trị bệnh trầm cảm.
– Liệu pháp hỗ trợ.
+ Liệu pháp này nhằm tạo sự cân bằng về thực tế của bệnh nhân và phản ứng của họ.
+ Bệnh nhân được giúp đỡ những vấn đề mà họ không thể giải quyết.
+ Liệu pháp này thường được kết hợp với thuốc chống trầm cảm trong điều trị bệnh trầm cảm mức độ vừa và nhẹ.
– Liệu pháp phân tích tâm lý.
+ Liệu pháp phân tích tâm lý giúp bệnh nhân chấp nhận những thay đổi do rối loạn trầm cảm gây ra.
+ Liệu pháp này có mục đích là giúp cho bệnh nhân dung nạp tốt hơn những tình huống chấn thương tâm lý và tự hiểu biết về các triệu chứng.
+ Trong liệu pháp tâm lý, nhà tâm lý đóng vai trò chủ động giúp bệnh nhân hiểu được các động cơ không ý thức và tự cải thiện các cơ chế xuất hiện bệnh đó thực sự tồn tại.
+ Liệu pháp này thường được kết hợp với thuốc chống trầm cảm trong điều trị trầm cảm vừa và nhẹ.
6.8 Điều trị củng cố
– Mục tiêu điều trị củng cố
Điều trị củng cố nhằm chống tái phát trầm cảm, phục hồi chức năng cho bệnh nhân. Cần tránh 2 xu hướng sau:
– Điều trị củng cố quá ngắn. Nếu điều trị củng cố quá ngắn, bệnh trầm cảm sẽ dễ dàng tái phát. Ngày nay, hầu hết các tác giả đều thống nhất rằng thời gian điều trị củng cố cần kéo dài ít nhất 1 năm.
– Liều thuốc quá thấp sẽ không có tác dụng ngăn chặn tái phát của cơn trầm cảm. Liều củng cố phải tương đương 75 mg amitriptylin/ngày trở lên (50 mg sertralin, 20 mg paroxetin, 75 mg venlafaxin…).
– Thời gian điều trị củng cố
+ Bị bệnh cơn đầu tiên, cần điều trị củng cố tối thiểu 1 năm.
+ Bị bệnh cơn thứ 2, cần điều trị củng cố tối thiểu 2 năm.
+ Bị bệnh cơn thứ 3, cần điều trị củng cố tối thiểu 3 năm.
+ Bị bệnh cơn thứ 4, cần điều trị củng cố tối thiểu 4 năm.
+ Bị bệnh cơn thứ 5 trở lên, cần điều trị củng cố suốt đời.
Lưu ý:
– Bệnh nhân là học sinh, sinh viên thì cần điều trị củng cố cho đến khi ra trường. (ví dụ học viên năm thứ nhất đại học bách khoa bị trầm cảm thì phải uống thuốc điều trị củng cố không phải là 1 năm mà là 5 năm, nghĩa là đến khi ra trường).
– Bệnh nhân trầm cảm trên 45 tuổi (dù đang bị bất cứ cơn thứ mấy) cũng phải điều trị củng cố suốt đời.
Bệnh nhân trầm cảm mạn tính cần điều trị củng cố suốt đời bằng thuốc chống trầm cảm và thuốc chỉnh khí sắc.
Trả lời