0966884051

Nghiện rượu và các rối loạn tâm thần do rượu

Nghiện rượu và các rối loạn tâm thần do rượu

  1. Nghiện rượu

1.1 Khái niệm và tiêu chuẩn chấn đoán

Theo Tổ chức Y tế Thế giới, nghiện rượu là nhu cầu thèm muốn, đòi hỏi thường xuyên đồ uống có cồn, hình thành thói quen, gây rối loạn nhân cách, giảm khả năng lao động và ảnh hưởng đến sức khỏe. Có 7 triệu chứng chính của hội chứng nghiện rượu, đó là:

– Cảm giác thôi thúc phải uống rượu: người nghiện rượu khi đã bắt đầu uống rượu thì không thể ngừng lại được. Nếu họ bỏ rượu, họ cảm thấy thèm mãnh liệt.

– Thói quen uống rượu hàng ngày: người uống rượu uống hết ngày này sang ngày khác. Họ uống rượu sau các khoảng thời gian nhất định để tránh hoặc làm nhẹ hội chứng cai rượu.

– Uống rượu được ưu tiên hơn các hành vi khác: với người nghiện rượu, uống rượu là ưu tiên hàng đầu, hơn cả sức khỏe, gia đình, xã hội, nghề nghiệp.

– Có hiện tượng dung nạp rượu: với một nồng độ rượu trong máu bình thường, người nghiện rượu không bị ảnh hưởng. Lượng rượu uống của bệnh nhân ngày càng tăng dần. Đến giai đoạn cuối của nghiện rượu, sự dung nạp rượu tụt xuống, bệnh nhân mất năng lực chỉ sau khi uống một lượng rượu nhỏ.

– Lặp đi, lặp lại hội chứng cai rượu: các triệu chứng của hội chứng cai rượu xuất hiện khi nồng độ rượu trong máu tụt xuống. Vì vậy hội chứng cai rượu thường xuất hiện vào buổi sáng sớm, sau một đêm không uống rượu.

– Uống rượu vào buổi sáng: người nghiện rượu phải uống rượu vào buổi sáng sớm, ngay sau khi thức giấc để chặn hội chứng cai rượu. Ở hầu hết các nền văn hóa, uống rượu buổi sáng được coi là nghiện rượu.

– Tái nghiện rượu: sau một thời gian cai rượu, người nghiện rượu dễ dàng tái nghiện chỉ sau vài ngày uống rượu.

Ngày nay, hầu hết các tác giả đều sử dụng tiêu chuẩn sau để xác định nghiện rượu:

– Uống rượu hàng ngày trong thời gian từ 10 năm trở lên.

– Mỗi ngày uống tối thiểu 300ml rượu 40 độ cồn.

1.2 Dịch tễ học của nghiện rượu

– Tỷ lệ người nghiện rượu: Nghiện rượu là một bệnh phổ biến, chiếm 1-10% dân số. Các nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy số người nghiện rượu ở thành thị là 4% và ở nông thôn là 3% dân số.

– Giới: Tỷ lệ nữ/nam bị nghiện rượu giao động từ 1/8 đến 1/4. Trong thực tế lâm sàng, hầu hết các bệnh nhân nghiện rượu là nam. Ở Việt Nam, nữ chỉ chiếm chừng 10% số người nghiện rượu, số bệnh nhân nữ phải điều trị nghiện rượu trong bệnh viện là rất hiếm.

– Nghề nghiệp: Nghề nghiệp là môi trường ảnh hưởng đến nghiện rượu. Có 3 loại nghề nghiệp liên quan đến nghiện rượu là nông dân với môi trường nông thôn, tầng lớp công nhân lao động chân tay, nặng nhọc và những người tiếp xúc với công chúng nhiều như bồi bàn, giới kinh doanh.

Ở Việt Nam, có đến 80% số người nghiện rượu làm những nghề lao động nặng nhọc như thợ xây, thợ mộc, thợ rèn, nhưng có đến 32,5% số người này thất nghiệp tại thời điểm nghiên cứu.

–  Trình độ học vấn: Người có học vấn thấp có tỷ lệ nghiện rượu cao hơn người có học vấn cao. Ở Việt Nam, theo Trần Viết Nghị (1996), có đến 80,6% số người nghiện rượu chưa tốt nghiệp phổ thông trung học. Môi trường làm việc nặng nhọc, sự thiếu hiểu biết và sự phổ biến của quan niệm sai lầm trong dân chúng cho rượu là thuốc bổ, giúp nhanh chóng phục hồi sức khỏe… đã tạo diều kiện thuận lợi cho phát sinh, phát triển nghiện rượu.

– Thời gian uống rượu: Đa số các tác giả đều cho rằng phải uống rượu trên 10 năm mới trở thành nghiện rượu, chỉ một số ít bệnh nhân uống trên 5 năm đã trở thành nghiện rượu. Những bệnh nhân này phải uống một lượng rượu rất lớn mỗi ngày (700-1000ml rượu 40 độ cồn). Nhìn chung, tỷ lệ người nghiện rượu có thời gian uống rượu dưới 5 năm chỉ chiếm 10% số trường hợp. Tỷ lệ cao nhất là nhóm uống rượu từ 10 đến 15 năm, chiếm 60%, còn nhóm bệnh nhân uống rượu 15-20 năm chiếm 30%.

1.3  Biểu hiện lâm sàng của nghiện rượu.

1.3.1  Giai đoạn 1

Giai đoạn này bệnh nhân chưa thực sự trở thành nghiện rượu do không có hội chứng cai khi ngừng uống rượu. Bệnh nhân thích uống rượu và uống ngày càng nhiều. Nếu không uống rượu, bệnh nhân thấy thèm và nhớ rượu. Khả năng dung nạp với rượu của bệnh nhân tăng lên nhanh chóng, họ có thể uống 500 ml rượu 40 độ cồn mỗi ngày.

Bệnh nhân mất phẩn xạ nôn khi uống rượu, thay đổi tính tình và dần trở thành độc ác, hay nổi cáu vô cớ, hay quấy nhiễu và đa nghi. Bệnh nhân hay quên, mất ngủ, chú ý và trí nhớ kém, hay mệt mỏi, khả năng lao động giảm sút. Giai đoạn này thường kéo dài 5-10 năm. Nếu bệnh nhân tiếp tục uống rượu thì sẽ chuyển sang giai đoạn 2 của nghiện rượu.

1.3.2  Giai đoạn 2

Trong giai đoạn này, bệnh nhân đã thực sự trở thành nghiện rượu. Bệnh nhân luôn trong tình trạng thèm rượu bắt buộc và không thể kiềm chế. Họ có thể uống rượu bất kỳ lúc nào. Cứ sau một khoảng thời gian nhất định, bệnh nhân lại phải uống rượu để giảm cơn thèm rượu. Quãng thời gian này ngày càng ngắn lại.

Nếu không được uống rượu, bệnh nhân sẽ có hội chứng cai rượu. Hội chứng cai rượu xuất hiện khi nồng độ cồn trong máu giảm xuống. Vì thế hội chứng cai rượu hay xuất hiện vào buổi sáng, sau một đêm không được uống rượu. Để ngăn hội chứng cai rượu, bệnh nhân phải uống rượu buổi sáng, ngay sau khi ngủ dậy.

Bệnh nhân thường có khí sắc giảm, buồn rầu, dễ bực tức, giận dữ, độc ác và đa nghi. Bệnh nhân cũng có triệu chứng sợ hãi vô cớ, tự buộc tội mình, có thể cáo ảo thính, ảo thị giác, giấc ngủ không sâu đầy mộng mị.

Hội chứng cai rượu biểu hiên bởi các triệu chứng run tay, nôn, buồn nôn, mất ngủ, rối loạn thần kinh thực vật, kích động, lo lắng vô cớ, hoang tưởng và ảo giác, cơn co giật kiểu động kinh.

Khả năng dung nạp rượu tăng cao đến cực điểm và duy trì hàng năm, bệnh nhân uống từ 1500 đến 2000ml rượu 40 độ cồn mỗi ngày và triền miên trong trạng thái say rượu. Giai đoạn này thường kéo dài 5-10 năm.

1.3.3  Giai đoạn 3

Triệu chứng thèm rượu của bệnh nhân có khuynh hướng giảm đi, bớt lè nhè và bớt quấy rối hơn trước. Khả năng dung nạp rượu của bệnh nhân kém đi, họ chỉ uống được 150-200ml rượu mạnh đã say và say lâu hơn trước.

Hội chứng cai rượu ở giai đoạn này kéo dài hơn, các triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật như mạnh nhanh, huyết áp cao giao động, ra nhiều mồ hôi trầm trọng hơn giai đoạn trước.

Giai đoạn này, bệnh nhân có các bệnh não thực tổn do nghiện rượu mạn tính gây ra, đó là bệnh Korsakov, bệnh viêm não Wernicke và mất trí do rượu.

Bằng phương pháp chụp CT Scanner và MRI sọ não, người ta phát hiện hình ảnh teo não như giãn rộng não thất, tăng khoảng cách từ xương sọ đến bề mặt não, khe giữa các cuận não giãn rộng trên 2/3 số bệnh nhân. Hình ảnh này bền vững nửa năm sau khi cai rượu. Nếu bệnh nhân cai rượu lâu hơn thì hình ảnh giãn não thất mất dần. Nguyên nhân teo não còn được cho là rượu ảnh hưởng đến chức năng gan, gây giảm glucoza và các acid amin trong máu đến nuôi não. Như vậy, teo não do rượu vừa là hậu quả trực tiếp của rượu trên não và hậu quả gián tiếp rượu trên gan.

 

2. Hội chứng cai rượu

Hội chứng cai rượu xuất hiện ở người nghiện rượu nhưng đã ngừng uống đột ngột hoặc giảm đáng kể lượng rượu uống hàng ngày.

 

2.1 Lý do ngừng uống rượu:

 

– Bệnh nội khoa: chiếm 75% các lý do gây ngừng uống rượu ở bệnh nhân nghiện rượu. Các bệnh hay gặp là nhiễm trùng, cao huyết áp, loét dạ dày, tá tràng, viêm gan, xơ gan, viêm cầu thận mạn…

– Bệnh ngoại khoa: chiếm 20% số trường hợp cai rượu. Đó là các chấn thương, các bệnh đòi hỏi phải vào viện phẫu thuật như đau ruột thừa, viêm tụy cấp…

– Tự cai: Chỉ chiếm 5% số trường hợp cai rượu.

2.2 Triệu chứng của hội chứng cai rượu

– Thèm rượu mãnh liệt. Đây là triệu chứng bắt buộc có ở tất cả các bệnh nhân cai rượu. Bệnh nhân thèm rượu đến mức mọi suy nghĩ và hành động chỉ tập chung vào việc sao cho có rượu uống để giảm bớt cơn thèm rượu.

– Run tay chân: Triệu chứng này xuất hiện rất sớm sau khi ngừng uống rượu chứng 2-3 giờ. Bệnh nhân run tay biên độ nhỏ, đi đứng loạng choạng. Họ không làm được các nghiệm pháp giữ thăng bằng. Run có thể xuất hiện ở miệng, ở mặt của bệnh nhân.

– Ăn ít, nôn, buồn nôn: Bệnh nhân luôn trong tình trạng chán ăn, thậm chí không ăn gì. Bệnh nhân có cảm giác buồn nôn, nôn khan hoặc nôn hết thức ăn vừa ăn được.

– Mất ngủ: Đây là triệu chứng rất hay gặp trong cai rượu. Mất ngủ xuất hiện vào tối đầu tiên sau khi cai rượu. Bệnh nhân rất khó vào giấc ngủ, ngủ không sâu và đầy ác mộng. Giấc ngủ của bệnh nhân rất ngắn, họ hay thức giấc giữa chừng và cảm thấy rất mệt mỏi sau khi thức dậy. Mất ngủ tăng dần và đạt đến đỉnh vào ngày thứ 3 đến thứ 5 sau cai rượu, khi đó bệnh nhân có thể mất ngủ hoàn toàn.

– Rối loạn thần kinh thực vật: Bệnh nhân có mạch nhanh trên 100 lần/phút. Mồ hôi của bệnh nhân ra như tắm mặc dù thời tiết không nóng. Kèm theo, bệnh nhân có huyết áp cao và huyết áp tối đa có thể đạt tới 180-200 mmHg. Tuy nhiên, huyết áp không cao thường xuyên mà giao động, lúc cao, lúc về bình thường. Thân nhiệt của bệnh nhân có thể tăng tới 38-39 độ C do run cơ và gây ra tình trạng mất nước, mất điện giải.

– Lo lắng quá mức: Bệnh nhân lo lắng nhiều vào ngày thứ 2 của cai rượu. Họ lo lắng mơ hồ điều gì không lành sẽ xảy ra với họ. Bệnh nhân có lú lẫn, tăng lên về buổi tối.

– Kích động tâm thần vận động: Bệnh nhân la hét, chửi bới, đạp phá đồ đạc, đánh vợ, con… để có tiền uống rượu

– Hoang tưởng và ảo giác: Triệu chứng này xuất hiện ở ngày thứ 3 đến thứ 5 của cai rượu. Khoảng 85% số bệnh nhân cai rượu sẽ có ảo thanh thật, là các tiếng người không có thật, nhưng bệnh nhân nghe thấy rất rõ ràng, vọng từ ngoài môi trường vào đầu bệnh nhân. Nội dung của ảo thanh thường là tiếng chửi rủa khiến bệnh nhân rất hoảng sợ.

Bệnh nhân cũng có thể có ảo thị, là các hình ảnh không có thật như nhìn thấy các động vật nhỏ (chim, chuột, côn trùng) hoặc các hình ảnh rất ghê rợn mà bệnh nhân cho là nhìn thấy ma quỷ.

Khoảng 65% số bệnh nhân cai rượu là có hoang tưởng. Hoang tưởng ở các bệnh nhân này thường là hoang tưởng ghen tuông, hoang tưởng bị hại.

– Cơn co giật kiểu động kinh: Đây là triệu chứng trầm trọng nhất của hội chứng cai rượu. Bệnh nhân có các cơn co giật xuất hiện theo thứ tự co cứng, co giật, doãi mềm và hôn mê ngắn. Cơn co giật hay xuất hiện ở ngày thứ 3 đến thứ 5 của cai rượu, nó xuất hiện khi hội chứng cai đạt đến đỉnh điểm và báo hiệu bệnh nhân sắp vào sảng rượu.

2.3 Tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng cai rượu theo DSM-5

  1. Ngừng hoặc giảm đáng kể lượng rượu uống khi đang sử dụng rượu liều cao và kéo dài.
  2. Có ít nhất 2 tiêu chuẩn dưới đây xảy ra sau tiêu chuẩn A vài giờ đến vài ngày.

– Tăng hoạt động tự động.

– Run tay.

– Mất ngủ.

– Nôn, buồn nôn.

– Lo âu quá mức.

– Kích động tâm thần vận động.

– Ảo thị giác, ảo thanh, hoặc hoang tưởng.

– Cơn co giật kiểu động kinh.

  1. Các triệu chứng ở tiêu chuẩn B gây suy giảm rõ rệt các chức năng xã hội, nghề nghiệp hoặc các lĩnh vực quan trọng khác.
  2. Các triệu chứng này không do một bệnh thực tổn và một bệnh rối loạn tâm thần khác gây ra.

 2.4 Sảng rượu

Sảng rượu là một cấp cứu tâm thần tối khẩn cấp, phát triển trên nền một hội chứng cai rượu nặng. Nếu không được điều trị kịp thời và đúng cách, tỷ lệ tử vong của sảng rượu là 22-33%.

2.4.1 Triệu chứng của sảng rượu

Sảng rượu có khởi phát đột ngột, cấp tính trong khoảng thời gian từ một đến vài ngày sau khi ngừng uống rượu. Biểu hiện ban đầu của sảng rượu là bệnh nhân mất ngủ, chếnh choáng, run lẩy bẩy, rối loạn thần kinh thực vật (đỏ da, mạch nhanh, ra nhiều mồ hôi, đánh trống ngực, lo lắng, sợ hãi). Quãng thời gian từ lúc ngừng rượu cho đến khi có sảng rượu là khác nhau, cũng có thể từ 1-2 ngày, nhưng có trường hợp phải sau 3-4 ngày. Sảng rượu bao gồm 3 triệu chứng chính sau:

– Mất ngủ hoàn toàn.

– Rối loạn ý thức.

– Hoang tưởng và ảo giác rất rầm rộ.

Các triệu chứng của sảng rượu thường tăng lên về chiều tối và giảm đi vào buổi sáng.

2.4.2 Tiêu chuẩn chẩn đoán sảng rượu theo DSM -5

  1. Rối loạn ý thức cùng với giảm sự tập trung chú ý. Sự chú ý luôn giao động.
  2. Rối loạn nhận thức: giảm trí nhớ, rối loạn định hướng, rối loạn ngôn ngữ hoặc rối loạn khả năng quan sát.
  3. Các rối loạn này xuất hiện cấp tính (trong vài giờ đến vài ngày) và tiến triển có khuynh hướng giao động trong ngày.
  4. Có bằng chứng về một hội chứng cai rượu.

3  Loạn thần do rượu

Loạn thần do rượu bao gồm tất cả các rối loạn tâm thần có hoang tưởng hoặc/và ảo giác do rượu gây ra. Các rối loạn này bao gồm ảo giác do rượu, hoang tưởng do rượu, hội chứng cai rượu có hoang tưởng, ảo giác, sảng rượu và bệnh não thực tổn do rượu.

3.1 Ảo giác do rượu

Đặc trưng của ảo giác do rượu là ảo thanh, thường là tiếng người nói xấu, chửi, đe dọa bệnh nhân, xảy ra khi ý thức của bệnh nhân hoàn toàn tỉnh táo. Tiếng nói nghe thấy từ môi trường bên ngoài vọng vào đầu, khiến bệnh nhân rất lo lắng, khó chịu. Khoảng 3/4 số bệnh nhân có ảo thanh kéo dài dưới 6 tháng, 1/4 còn lại ảo thanh kéo dài trên 1 năm nếu không ngừng rượu. Chính vì thế, ảo thanh do rượu dễ bị nhầm với tâm thần phân liệt.

Ảo thanh có thể xuất hiện đơn độc, nhưng cũng có thể phối hợp với ảo thị. Ảo thanh trong hội chứng cai rượu thì lộn xộn và chóng hết, nhưng ảo thanh do uống rượu thì rất bền vững. Khi cai rượu, ảo giác do rượu nặng thêm và xuất hiện thêm các triệu chứng của hội chứng cai rượu. Sau khi hết hội chứng cai (sau khoảng 2 tuần), ý thức bệnh nhân sáng sủa trở lại, nhưng ảo thanh vẫn tồn tại và bền vững trong nhiều tháng.

Ảo thanh chi phối mọi hành vi của bệnh nhân và bệnh nhân mất hết khả năng phê phán với ảo thanh, vì vậy dễ nhầm với tâm thần phân liệt. Các bệnh nhân này cần phải cai rượu, sau khi hết hội chứng cai rượu thì phải điều trị tiếp tục bằng thuốc an thần (haloperidol, olanzapin) thì bệnh nhân mới hết được ảo thanh. Tuy nhiên, ảo thanh sẽ nhanh chóng xuất hiện trở lại nếu bệnh nhân tái nghiện rượu.

3.2 Hoang tưởng do rượu

Đặc trưng của hoang tưởng do rượu là hoang tưởng ghen tuông, hoang tưởng bị hại xuất hiện khi ý thức của bệnh nhân hoàn toàn tỉnh táo. Cũng như ảo thanh do rượu, 3/4 số bệnh nhân có hoang tưởng kéo dài dưới 6 tháng và 1/4 số bệnh nhân hoang tưởng kéo dài hàng năm sau khi cai rượu. Do vậy, hoang tưởng do rượu dễ nhầm với tâm thần phân liệt.

Hoang tưởng ghen tuông xuất hiện ở bệnh nhân sau nhiều năm uống rượu với số lượng lớn. Bệnh nhân cho rằng vợ (hoặc bạn tình) của mình không chung thủy dù không có bằng chứng gì. Họ theo dõi, đánh đập và hành hạ vợ (bạn tình) do bị hoang tưởng chi phối hành vi. Hoang tưởng ghen tuông gắn liền với cuộc sống tình dục nghèo nàn của bệnh nhân. Họ thường bị liệt dương nên khó có khả năng sinh hoạt tình dục. Hơn nữa, vợ của những người nghiện rượu rất ghê tởm, không muốn quan hệ tình dục với họ do vệ sinh cơ thể của bệnh nhân bẩn, luôn trong tình trạng say rượu.

Hoang tưởng bị hại do rượu là bệnh nhân cho rằng có ai hoặc một thế lực nào đó tìm cách hại bệnh nhân, cũng có khi họ cho rằng ma quỷ hại mình. Hoang tưởng bị hại thường đi kèm với ảo giác do rượu tạo thành hội chứng paranoid.

Nói chung, hoang tưởng do rượu rất giống với hoang tưởng do cai rượu, nhưng chúng bền vững và xuất hiện trong tình trạng ý thức sáng sủa, còn hoang tưởng do cai rượu thì lộn xộn và nhanh chóng hết đi cùng với hội chứng cai rượu. Khi cai rượu, hoang tưởng do rượu nặng thêm cùng hội chứng cai. Trong thời gian hội chứng cai, bệnh nhân có thêm ảo thị giác. Khi hội chứng cai hết, ý thức bệnh nhân sáng sủa dần nhưng hoang tưởng vẫn không hết.

Cũng như ảo giác do rượu, để điều trị hoang tưởng do rượu thì cần cai rượu cho bệnh nhân và dùng thuốc an thần (haloperidol, olanzapin). Các triệu chứng này sẽ xuất hiện nhanh chóng khi bệnh nhân tái nghiện rượu.

 

  1. Điều trị

4.1. Điều trị hội chứng cai, sảng rượu

Hội chứng cai rượu, sảng rượu cần được điều trị tại phòng cấp cứu của khoa tâm thần, có bình ô xy, máy hút và các thiết bị cấp cứu khác. Cần tiến hành ngay các bước sau:

– Cố định bệnh nhân tại giường.

– Cho ngửi bông cồn hoặc cho uống rượu vang (50 ml rượu 10 độ cồn mỗi lần, ngày 3 lần) để làm giảm nhẹ các triệu chứng của sảng rượu hoặc hội chứng cai rượu.

– Chế độ hộ lý cấp 1.

– Hút đờm rãi (nếu cần), thở ô xy.

– Làm các xét nghiệm huyết học, chức năng gan, thận, đặc biệt là đường máu, điện giải. Do bệnh nhân có hội chứng cai rượu dễ đi ngoài và nôn nên cần làm xét nghiệm điện giải và đánh giá tình trạng mất nước để bù nước điện giải.

– Dùng thuốc:

  1. Seduxen 10 mg x 2 ống/ngày, tiêm bắp sáng 1ống, tối 1ống.
  2. Vitamin B1 0,1 x 2 ống/ngày, tiêm bắp sáng 1 ống, tối 1 ống.
  3. Ringer lactat 500 ml x 2 chai, truyền tĩnh mạch 40 giọt/phút.
  4. Piracetam 1 g x 4 ống/ngày, tiêm tĩnh mạch chậm.

Dùng thuốc 5 ngày. Sau thời gian 5 ngày điều trị, bệnh nhân sẽ hết sảng và hết hội chứng cai rượu.

Sau đó chuyển sang đơn thuốc sau:

  1. Olanzapin 10 mg x 1 viên/ngày, uống tối.
  2. Amitriptylin 25 mg x 4 viên/ngày,  sáng 2 viên, tối 2 viên.

Uống đơn trên 2 tuần, sau đó chuyển sang điều trị chống tái nghiện rượu như sau:

  1. Esperal (disulfiram) 500 mg x 1/2 viên/ngày, uống buổi sáng. Nên bắt đầu uống thuốc này 2-3 ngày trước khi ra viện. Thời gian uống thuốc tối thiểu 2 năm để tránh tái nghiện.

4.2. Điều trị nghiện rượu

4.2.1 Phương pháp dùng thuốc bình thần

Bệnh nhân nghiện rượu sẽ được đưa vào khoa tâm thần, viện tâm thần, điều trị nội trú. Tại đây, bệnh nhân bị bắt buộc ngừng uống rượu đột ngột và được dùng thuốc điều trị ngay, giống như điều trị hội chứng cai rượu ở trên.

4.2.2 Phương pháp dùng naltrexone

Rượu vào cơ thể được chuyển hóa qua nhiều giai đoạn với nhiều chất chung gian chuyển hóa khác nhau. Một trong những sản phẩm chuyển hóa dở dang của rượu là acetaldehyd. Chất này liên kết với monoamin ở não để tạo thành tetraisoquinolin. Đây chính là chất có tác dụng giống morphin, vì thế khi chúng gắn lên các thụ cảm thể morphin trong não sẽ tạo ra sảng khoái cho bệnh nhân. Chính các cảm giác sảng khoái do chất này tạo ra khiến bệnh nhân thích uống rượu, uống ngày càng thường xuyên và số lượng ngày càng tăng. Khi chúng ta dùng naltrexon điều trị cho bệnh nhân nghiện rượu, các thụ cảm thể morphin trên não sẽ bị naltrexon ức chế. Chất tetraisoquinolin không tác dụng được lên các thụ cảm thể morphin nữa, do vậy bệnh nhân sẽ không còn cảm giác sảng khoái khi uống rượu. Do cảm giác sảng khoái khi uống rượu không còn nữa nên sự thèm muốn uống rượu của bệnh nhân sẽ giảm dần và có thể mất hoàn toàn.

Diễn biến điều trị nghiện rượu của naltrexon (natrex, nodict, reVia) như sau:

– Sau 1 tháng điều trị, bệnh nhân giảm được 50% lượng rượu uống mỗi ngày (ví dụ trước đây uống mỗi ngày 1 lít rượu 40 độ cồn thì sau 1 tháng chỉ còn uống được 500 ml rượu cùng loại mỗi ngày).

– Sau 2 tháng điều trị, bệnh nhân giảm được 70% số lượng rượu uống mỗi ngày (chỉ còn uống được 300 ml rượu 40 độ cồn mỗi ngày).

– Sau 3 tháng điều trị, bệnh nhân căn bản kiểm soát được hành vi uống rượu của mình, có thể bỏ rượu hoàn toàn.

Tuy nhiên, bệnh nhân cần được uống thuốc điều trị củng cố tiếp tục trong ít nhất 2 năm tiếp theo.

Liều dùng: Naltrexon 50 mg x 1 viên/ngày, uống buổi sáng.

Ưu điểm của phương pháp cai rượu bằng naltrexon

– Bệnh nhân không phải ngừng rượu đột ngột (uống thuốc khi bệnh nhân vẫn đang uống rượu), do đó sẽ không có hội chứng cai rượu.

– Do không có hội chứng cai rượu nên có thể điều trị ngoại trú.

– Lượng rượu uống hàng ngày giảm từ từ, bệnh nhân sẽ dễ chấp nhận hơn.

– Có thể uống rượu (khi bắt buộc), mà không sợ bị các phản ứng khó chịu như đối với esperal.

Nhược điểm của phương pháp này là:

– Thời gian cai rượu kéo dài, không có lợi cho bệnh nhân đã có biểu hiện suy gan, thận, cao huyết áp, các bệnh não do rượu…

– Khó cai rượu tuyệt đối do bệnh nhân vẫn có thể uống được một lượng rượu nhỏ, hiệu quả không cao như dùng esperal.

– Giá thành đắt hơn nhiều so với esperal.

Áp dụng cụ thể cho từng trường hợp

– Bệnh nhân nghiện rượu đã có tổn thương chức năng gan, thận, cao huyết áp, xuất huyết tiêu hóa… cần phải điều trị nội trú, cắt cơn cai rượu bằng seduxen và vitamin B1. Sau đó điều trị củng cố bằng esperal.

– Bệnh nhân lạm dụng rượu, nghiện rượu nhưng thể trạng chung còn tốt, chưa tổn thương gan thận và các bệnh thực tổn như đã nêu trên, có thể điều trị ngoại trú bằng naltrexon.

 

4.3. Điều trị loạn thần do rượu

Sử dụng các thuốc an thần có tác dụng chống hoang tưởng ảo giác. Ví dụ:

  1. Haloperidol 1,5mg x 8 viên/ngày (sáng 4 viên, tối 4 viên).
  2. Trihex 2mg x 4 viên/ngày (sáng 2 viên, tối 2 viên).

Hoặc

  1. Olanzapin 10mg x 1 viên/tối.

Dùng thuốc 3 tháng, bệnh nhân cần phải cai rượu bằng esperal.

Chia sẻ bài này đến

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *