Tự Sát
- Định nghĩa tự sát:
– Là một cái chết tự nguyện do chính mình gây ra hay nói một cách khác, là một hành động tự đem lại cái chết cho bản thân.
– Mưu toan tự sát là một hành động có mục đích dẫn tới cái chết cho chính bản thân như sử dụng thuốc quá liều hay tự gây ra các vết thương nguy hiểm đến tính mạng. Trong khi những ý tưởng tự sát cho thấy người đó muốn kết thúc cuộc đời của mình, thường được biểu lộ qua lời nói hoặc thư từ, hay gặp ở thanh thiếu niên.
– Đe doạ tự sát là một thái độ đe doạ thực hiện mưu toan tự sát trong một thời gian gần nhất, đây được coi như một lời báo động hoặc một tín hiệu đối với người xung quanh.
– Tự sát thành công khi đưa đến cái chết không hồi phục
Theo WHO (năm 1993) tự sát bao gồm 3 loại sau:
- Ý tưởng tự sát: Người bệnh có ý nghĩ muốn chết, nhưng chưa hành động.
- Toan tự sát (tự sát không hoàn thành): Người bệnh đã có những hành vi khác nhau, với ý muốn một cách có ý thức và có suy nghĩ để tự làm chết mình, nhưng không đạt được kết quả như họ mong muốn.
- Tự sát (tự sát hoàn thành): Là hành vi tự đem lại cái chết cho bản thân mình.
- Dịch tễ hoc:
– Hiện nay số liệu liên quan đến tự sát trong nước chưa được chính thức. Ước tính có khoảng hàng chục ngàn người chết vì tự sát, nhiều hơn rất nhiều con số tử vong do tai nạn giao thong. Do đó trình bày một số số liệu của nước ngoài:
– Tại Pháp : 11.000 trường hợp tự sát trong một năm, cao hơn số tử vong do tai nạn giao thông.Ở lứa tuổi 15-25 tuổi, tự sát chiếm 16% tổng số trường hợp tử vong. Hiếm hơn ở trẻ em 10-14tuổi, chiếm tỷ lệ 4,2% tử vong cùng lứa tuổi ( 1995) .
– Tại Mỹ, hơn 31000 trường hợp chết vì tự sát mỗi năm. 33% dân số thực hiện hành vi tự sát tại một thời điểm nào đó trong suốt cuộc đời. Tự sát xếp thứ 5 trong các nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong ở Mỹ, nam có nguy cơ tử vong do tự sát cao gấp 4 lần so với nữ, tuy nhiên nữ có toan tự sát cao gấp nhiều lần so với nam giới.
Theo các tác giả, các con số này còn thấp vì trong thực tế có những trường hợp tự sát nhưng được ghi nhận là chết do tai nạn, do ngộ độc.
- Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ
3.1. Ở người bình thường:
– Quá thất vọng, quá đau khổ hay quá chán nản buồn rầu.
– Thấy cuộc đời không có lối thoát.
– Bị nghi ngờ, oan ức…
3.2. Ở người bệnh tâm thần:
3.2.1 Rối loạn trầm cảm: những ý tưởng chết chóc và tự sát hay gặp nhất trong khi mưu toan tự sát ít gặp hơn, nhưng người thầy thuốc phải luôn luôn cảnh giác.
– Nguy cơ tự sát trong rối loạn trầm cảm tăng cao trong:
- -Trầm cảm kèm theo lo âu (trầm cảm kích động) với mất ngủ nặng nề.
- -Trầm cảm có thêm triệu chứng loạn thần như hoang tưởng, ảo giác.
- -Cao nhất ở ba năm đầu sau khi xác định bệnh (25% ca tử vong)
- -Người cao tuổi, phái nam.
- -Nhân cách lệ thuộc người xung quanh hoặc kèm theo bệnh cơ thể nặng, hoặc lệ thuộc rượu.
- -Hạn chế giao tiếp xã hội như sống một mình (độc thân, goá, ly dị), không nghề nghiệp (thất nghiệp, hưu trí).
- -Trong quá khứ đã từng có mưu toan tự sát
3.2.2 Tâm thần phân liệt và rối loạn hoang tưởng cấp: có nguy cơ tự sát cao.
-Xuất hiện dưới hình thức xung động và không nguyên cớ.
-Do hoang tưởng và ảo giác chi phối (ảo thanh mệnh lệnh, hoang tưởng bị chi phối, …)
– Thường gặp khi kèm theo rối loạn trầm cảm ở lúc khởi đầu bệnh, hoặc giai đoạn bệnh tiến triển cũng như giai đoạn thiếu sót.
3.1.3 Rối loạn hoang tưởng trường diễn:
– Nguy cơ tự sát ít gặp, có thể do ảo giác sai khiến, hoang tưởng bị thiệt thòi quyền lợi, hoang tưởng được yêu.
3.1.4 Rối loạn lo âu:
– Trong loạn ám ảnh, người bệnh hay bị ám ảnh bởi những ý tưởng tự sát nhưng rất hiếm khi chuyển thành hành động.
– Ngược lại trong rối loạn phân ly (rối loạn chuyển di, Hysteria) với tình trạng gia tăng biểu lộ cảm xúc quá mức đôi khi dẫn đến mưu toan tự sát
3.1.5 Rối loạn tâm thần thực tổn:
– Trong sảng, sa sút tâm thần nguy cơ tự sát rất hiếm, có thể do tai nạn vì rối loạn ý thức, mất khả năng định hướng, mất khả năng tự kiểm soát đưa tới hành vi nguy hiểm.
– Có thể gặp trong trầm cảm khởi đầu của suy giảm hoạt động nhận thức.
3.1.6 Lệ thuộc rượu và ma túy :
– Mưu toan tự sát thực sự hay gặp ở nhóm lệ thuộc ma túy.
– Ngoài ra cũng lưu ý những trường hợp được coi tương đương với tự sát như tự hủy hoại dần dần với rượu và ma túy cũng như hành vi tự sát như sử dụng quá liều ma túy trong khi động cơ tự sát thường không rõ ràng.
3.1.7 Rối loạn ăn uống :
– Mưu toan tự sát và tự sát thường hay gặp ở thanh thiếu niên có rối loạn hành vi ăn uống (25%). Đặc biệt ở những người chán ăn có những cơn ăn nhiều và những người ăn nhiều kèm theo hành vi tự gây ra nôn ói .
3.1.8 Rối loạn nhân cách :
– Thường gặp ở những người không chịu đựng đươc sự ngược đãi, không có khả năng trì hoãn phản ứng cảm xúc, hay có khuynh hướng xung động hay vi phạm các luật lệ và đòi hỏi giải quyết ngay các khó khăn gặp phải.
– Ngoài ra ở thanh thiếu niên cũng hay gặp những cá nhân thích có các hành vi nguy hiểm như chơi các môn thể thao nguy hiểm
3.3. Nguyên nhân tâm lý:
– Trạng thái buồn rầu, chán nản không muốn sống ở người bị bệnh mạn tính (TBMMN, ung thư, HIV, …), họ mất niềm tin hy vọng chữa khỏi bệnh.
– Cho rằng gia đình đã bỏ rơi hay lừa gạt mình.
– Lúc đầu doạ tự sát nhưng sau đó tự sát thật sự.
– Sự thích kịch tính hoá ở bệnh nhân rối loạn phân ly.
Lưu ý: Tự sát do nguyên nhân tâm lý thường khó phát hiện hơn tự sát do nguyên nhân bệnh lý.
– Những nguyên nhân chính của tự sát là bệnh lý tâm thần và những nguyên nhân xã hội.
- Tự sát và các nguyên nhân xã hội:
4.1 Sự ngược đãi: Thường bị che dấu, phủ nhận, hay xảy ra ở thanh thiếu niên. Sự ngược đãi này có thể gây tổn thương cơ thể, lạm dụng tình dục, hay gây chấn thương tâm lý. Đây là một yếu tố nguy cơ quan trọng của tự sát. Lúc nhỏ bị ngược đãi, lớn lên bị nguy cơ tự sát gấp ba lần.
4.2 Yếu tố gia đình: Cha mẹ bị bệnh tâm thần (trầm cảm, lệ thuộc rượu, lệ thuộc ma túy, nhân cách chống đối xã hội), xung đột gia đình thường xuyên, ly dị, mất người thân.
4.3 Yếu tố học tập và nghề nghiệp:
Thất bại trong học tập và nghề nghiệp.
4.4 Yếu tố bệnh tật:
Bệnh cơ thể nặng, nhiễm HIV.
4.5 Yếu tố quan hệ yêu đương: Chia tay, có thai, phá thai.
- Tự sát và các nguyên nhân sinh học:
Ở các bệnh nhân trầm cảm chết do tự sát xung động, các tác giả ghi nhận sự giảm nồng độ chất chuyển hoá của Serotonine (Acide 5-hydroxyindolacétique-5 HIAA) trong dịch não tuỷ. Một số nghiên cứu khác ghi nhận sự giảm nồng độ chất chuyển hoá của Dopamine (Acide homovanillique) trong dịch não tuỷ của người tự sát.
- Các phương thức tự sát:
Tự sát thường được thực hiện bởi những phương tiện mãnh liệt. Dựa theo một thống kê của tác giả Pháp về tự sát ở thanh thiếu niên Pháp.
Ơ phái nam treo cổ đứng hàng đầu (38,7%), kế đó là súng đạn (35%), uống thuốc quá liều và nhảy lầu.
Ở phái nữ treo cổ gây tử vong cao nhất (27%), tự đầu độc (26%), nhảy lầu (18%).
Mưu toan tự sát thường gấp 30-60 lần tự sát thật sự, ghi nhận 40.000 ca dưới 25 tuổi có mưu toan tự sát xảy ra mỗi năm. Thường gặp nhiều ở nữ hơn ở nam (3/1). Phương tiện thường sử dụng là thuốc hướng thần, thuốc giảm đau, cắt tĩnh mạch.
- Thăm khám lâm sàng:
Thường được thực hiện tại bệnh viện bao gồm thăm khám cơ thể, tâm thần, đánh giá các yếu tố môi trường gia đình và xã hội
7.1 Khám cơ thể:
– Phát hiện các tổn thương cơ thể do hành vi tự sát gây ra, đánh giá mức độ trầm trọng, chuyển hồi sức cấp cứu nếu cần thiết
– Đánh giá tổng trạng, tình trạng dinh dưỡng, vệ sinh cơ thể, những dấu vết cơ thể do bị ngược đãi cũng như lạm dụng tình dục, tìm những dấu hiệu lạm dụng rượu và ma tuý. Nếu cần thiết xác định nồng độ rượu trong máu và xét nghiệm tìm độc chất.
7.2 Khám tâm thần:
– Tìm hiểu tiền căn bệnh lý tâm thần cá nhân và gia đình
– Phát hiện các rối loạn tâm thần hiện tại và đánh giá mức độ liên quan với mưu toan hoặc hành vi tự sát hiện tại.
– Tìm hiểu những phương tiện đã được sử dụng cho hành vi tự sát.
– Phát hiện những yếu tố thúc đẩy trực tiếp cũng như các nét đặc trưng của nhân cách
7.3 Đánh giá các yếu tố môi trường và xã hội :
– Tìm hiểu các tình huống bị ngược đãi.
– Tìm hiểu kết quả học tập, hoặc thành quả lao động.
– Đánh giá mối quan hệ đối với các thành viên trong gia đình, trường học hoặc nơi làm việc.
- Phòng ngừa và điều trị
8.1. Xử trí cụ thể:
8.1.1 Vấn đề nhập viện:
Trước một trường hợp bệnh nhân đã có ý tưởng hoặc toan tự sát, thầy thuốc cần xem xét thận trọng các bệnh lý đi kèm, nhập viện là biện pháp tốt nhất để có điều kiện nói chuyện với bệnh nhân và gia đình, qua đó hiểu được phần nào về động cơ của hành vi tự sát, đồng thời cũng quản lý theo dõi được người bệnh.
8.1.2. Phòng ngừa tự sát ở bệnh nhân điều trị nội trú:
– Thực tế, không thể biết trước bệnh nhân nào sẽ có hành vi tự sát nên các biện pháp phòng ngừa phải được áp dụng chung cho tất cả bệnh nhân tâm thần: loại bỏ các vật dụng nguy hiểm, kiểm tra kỹ việc uống thuốc, thường xuyên đi tua để kiểm tra theo dõi bệnh nhân hoặc theo dõi qua hệ thống camera …
– Thầy thuốc phải thường xuyên gần gũi với bệnh nhân, tạo được niềm tin ở người bệnh, biết lắng nghe những điều mà bệnh nhân muốn nói để qua đó phát hiện được ý tưởng tự sát.
– Trong quá trình thăm khám và điều trị, thầy thuốc phải biết tiên lượng trước những trường hợp nào có thể tự sát, dựa vào:
+ Tiền sử bản thân và gia đình đã có lần tự sát.
+ Trầm cảm nặng.
+ Có hoang tưởng bị tội, bị hại.
+ Luôn nói những chuyện buồn, không muốn sống.
+ Bệnh nhân mới vào viện, bệnh nhân nằm viện quá lâu ngày …
– Với những bệnh nhân đã có ý tưởng hoặc toan tự sát cần có chế độ theo dõi đặc biệt, bệnh nhân luôn ở trong tầm quan sát của nhân viên (24/ngày) và có sự bàn giao giữa các tua trực một cách cụ thể.
– Trong trường hợp phát hiện bệnh nhân có hành vi tự sát: tùy theo từng trường hợp cụ thể mà xử trí cho thích hợp, nếu có các tổn thương cơ thể do hành vi tự sát thì phải cấp cứu kịp thời.
+ Cắt nguồn điện, nhanh chóng đưa người bệnh ra khỏi khu vực nguy hiểm (cắt dây treo cổ, đưa bệnh nhân lên trên cạn, dập lửa,…)
+ Tiến hành cấp cứu: hồi sinh tim phổi ban đầu theo phác đồ ABC, cầm máu, gây nôn (uống thuốc gây ngộ độc),…
+ Xử trí các thương tích (nếu có)
+ Trường hợp quá khả năng thì nhanh chóng vận chuyển người bệnh đến BV đa khoa có hồi sức tích cực để cấp cứu kịp thời.
+ Sau khi qua cơn nguy kịch thì điều trị theo nguyên nhân.
– Tích cực điều trị theo nguyên nhân:
+ Do nguyên nhân tâm lý: điều trị bằng LP tâm lý kết hợp với hóa dược.
+ Do trầm cảm nặng: tốt nhất là dùng shock điện kết hợp với thuốc chống trầm cảm, thuốc an thần kinh thế hệ mới vì có hiệu lực nhanh, ít tác dụng phụ.
+ Do hoang tưởng ảo giác chi phối: nên dùng an thần kinh liều cao, có thể phối hợp với shock điện.
+ Do trạng thái Akathesia (bồn chồn, bất an): seduxen 10mg x 10-20mg/ngày, Trihex hoặc Artan 2 mg x 4-8mg/ngày; điều chỉnh liều thuốc ATK nếu có sử dụng.
– Cần đề phòng trường hợp bệnh nhân giả khỏi bệnh, xin ra viện để khỏi bị theo dõi và thực hiện ý định tự sát.
– Đảm bảo dinh dưỡng, nước-điện giải cho bệnh nhân bằng cách cho ăn qua sonde dạ dày hoặc đường tĩnh mạch.
+ Đảm bảo vệ sinh các nhân, tránh bội nhiễm, phòng chống loét.
+ Chăm sóc cấp một, theo dõi thường xuyên, kiểm tra việc sử dụng thuốc.
8.2. Phòng ngừa theo các bậc
8.2.1 Phòng ngừa bậc 1: nhằm mục đích phát hiện sớm các trường hợp có ý tưởng hoặc mưu toan tự sát bao gồm:
– Đánh giá những yếu tố nguy cơ và những tình huống dễ đưa tới tự sát như hay xảy ra ở tuổi trẻ ( thanh thiếu niên ) và người cao tuổi, những giai đoạn khủng hoảng ( xa nhau, thay đổi nghề nghiệp, thay đổi chỗ ở, con cái rời xa. ) , những chấn thương tâm lý trực tiếp (tình yêu đổ vỡ, xung đột gia đình, bệnh tật, thất bại trong học hành và nghề nghiệp … )
– Tăng cường những yếu tố bảo vệ như giúp trẻ hội nhập xã hội thông qua học tập, phong trào thể dục thể thao, lễ hội, đoàn thể; giúp trẻ tự tin vào bản thân và người khác; giúp trẻ biết trình bày những khó khăn của mình và yêu cầu giúp đỡ khi cần thiết.
– Những thầy cô giáo, bác sĩ gia đình, bác sĩ tuyến y tế cơ sở, các nhà tư vấn tâm lý được phổ biến những biểu hiện của trầm cảm và các yếu tố nguy cơ tự sát
– Nên có đường dây nóng (hotline) giúp những người đang có nguy cơ tự sát liên hệ để yêu cầu gíup đỡ.
– Thông qua các phương tiện truyền tin truyền thông phổ biến các hiểu biết cơ bản về tự sát.
8.2.2 Phòng ngừa bậc 2 : nhằm mục đích ngăn ngừa sự thực hiện mưu toan tự sát hoặc đã xảy ra hành vi tự sát nhưng không thành công cũng như các trường hợp đe doạ tự sát:
– Nhập viện
– Theo dõi 24/24 nhất là ban đêm, bệnh nhân phải trong tầm quan sát của nhân viên y tế, nên khuyến khích người thân ở lại cùng người bệnh.
– Người bệnh nên nằm trong phòng yên tĩnh sáng sủa, không có dụng cụ nguy hiểm, ban đêm cũng có đèn mờ, không cho bệnh nhân đắp chăn quá mặt.
– Điều trị bệnh lý tâm thần đi kèm với thuốc hướng thần phù hợp, kiểm soát vấn đề uống thuốc của người bệnh.
– Tâm lý trị liệu nâng đỡ bao gồm trị liêu cá nhân và trị liệu nhóm.
8.2.3 Phòng ngừa bậc 3: nhằm mục đích ngăn ngừa tự sát tái diễn:
– Sửa chữa hoặc điều chỉnh các yếu tố nguy cơ.
– Tâm lý trị liệu cá nhân, nhóm, gia đình.
– Điều trị chống tái phát các bệnh lý tâm thần
- Một số trường hợp cụ thể
TH1: Chống đối ăn uống:
Một số bệnh nhân nghi nhờ đồ ăn, đồ uống của họ bị bỏ thuốc độc => họ không ăn.
Cách xử trí: Giải thích cho bệnh nhân là đồ ăn hoàn toàn không có độc. Nếu được, bạn có thể ăn trước mặt bệnh nhân hoặc đổi cho họ đồ ăn khác.
Bệnh nhân nói chính bạn bỏ độc vào đồ ăn của họ.
Cách xử trí: Tìm một người khác thân cận với bệnh nhân hơn cho bệnh nhân ăn. Khi bệnh nhân ổn định hơn, hãy từ từ giải thích cho bệnh nhân hiểu.
Bệnh nhân cho rằng đồ ăn đó là không ăn được( nghĩ đồ ăn là cát, đá ,gạch …)
Cách xử trí: Ăn trước mặt bệnh nhân hoặc đổi cho họ đồ ăn khác.
Trong mọi trường hợp, có thể cố định bẹnh nhân, ăn qua sonde dạ dày hoặc nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch nếu như bệnh nhân không chịu ăn uống.
TH2: Dùng thuốc độc:
Đường tiêu hóa: uống thuốc ngủ, uống thuốc độc
Cách xử trí: Mở miệng bệnh nhân, lau sạch miệng và họng.
Kiểm tra hô hấp và tuần hoàn. Cấp cứu tim phổi nếu có ngừng thở- ngừng tim.
Móc họng, làm cho bệnh nhân nôn( nếu bệnh nhân dùng những chất như acid không cố làm cho bệnh nhân nôn)
Cho bệnh nhân nằm nghiêng một bên (nghiêng trái) , đầu thấp.(Nếu bệnh nhân dùng thuốc trừ sâu- thuốc diệt cỏ cần nằm đầu cao để tránh chất nôn sặc vào phổi)
Cho bệnh nhân uống nước, sữa để trung hòa chất độc.( Bệnh nhân dùng thuốc trừ sâu- thuốc diệt cỏ không được cho uống sữa)
Rửa dạ dày, dùng than hoạt tính(nếu có điều kiện).
Dùng các chất/thuốc giải độc đặc hiệu( nếu có)
Chuyển bệnh nhân tới cơ sở y tế.(Mang mẫu thuốc,vỏ hộp thuốc, chất độc để tiện việc xác định)
Đường hô hấp: hít khí gas, khí CO/CO2, …
Cách xử trí:Cách ly bệnh nhân với nguồn khí độc.
Đưa bệnh nhân ra chỗ thoáng khí, nới rộng quần áo.
Đặt tư thế nằm đầu cao.
Kiểm tra tim phổi, cấp cứu ngừng hô hấp- tuần hoàn( nếu có dấu hiệu ngừng thở, ngừng tim)
Cho thở Oxy (nếu có)
Chuyển tới bệnh viện.
Đường tuần hoàn: Tiêm, chích, dùng động vật/côn trùng có độc cắn,đốt…
Cách xử trí:Loại bỏ chất độc ra khỏi cơ thể( nếu có thể)
Cho bệnh nhân nằm đầu thấp, nới rộng quần áo, đặt nơi bằng phẳng thoáng khí.
Hạn chế cử động nhằm làm chậm thời gian chất độc xâp nhập vào cơ thể.
Không khuyến cáo sử dụng dây Garo.
Sơ cứu vết cắn, vết đốt.
Chuyển ngay tới cơ sở y tế ( Mang theo các bơm tiêm chất độc đã dùng, mẫu/ vỏ thuốc độc, chụp ảnh hoặc mang mẫu vật nếu là các loài động vật có độc).
TH3: Cắt cổ tay hoặc cổ họng hoặc tự đâm mình
Cách xử trí: Kiểm tra hô hấp và tuần hoàn, tiến hành cấp cứu tim-phổi nếu cần.
Ấn động mạch vùng trên vết thương.
Gấp chi tối đa nếu tổn thương ở các chi.
Băng ép để cầm máu. Sử dụng băng/ gạc băng nhiều lớp để cầm máu. Có thể cầm máu bằng các cách sau: Dùng kẹp để kẹp mạch máu, khâu vết thương, Garo(lưu ý nới Garo 20-30p/lần, mỗi lần từ 4-5p,trước khi nới cần nhớ ấn động mạch. Nếu trong quá trình nới dây Garo mà máu tiếp tục chảy nhiều, buộc lại dây Garo ở vị trí cao hơn vị trí cũ.)
Nâng cao vùng bị tổn thương lên so với mức tim (nếu bệnh nhân cắt cổ, cho bệnh nhân nằm đầu cao)
Không cố gắng rút dao ra khỏi vết thương nếu vết thương không chảy máu nhiều, việc rút dao đột ngột hoặc không đúng cách có thể làm chảy máu nhiều hơn.
Chuyển ngay bệnh nhân tới cơ sở y tế.
TH4: Ngừng hô hấp (đuối nước cố ý, ngộ độc …)
Cách xử trí:Phải tiến hành ngay lập tức.
Đánh giá cùng lúc cả hô hấp và tuần hoàn.
Tát vào má 2-3 cái thật mạnh để gây phản xạ hồi tỉnh và thở lại.
Đưa bệnh nhân tới nơi thoáng khí, nới rộng quần áo.
Đặt bệnh nhân nằm sấp, đầu thấp( nếu đuối nước). Các trường hợp khác để bệnh nhân nằm ngửa, cổ ngửa tối đa. Nếu nghi ngờ có chấn thương cột sống kèm theo thì dùng thủ thuật “nâng cằm- đẩy trán”.
Mở miệng ,móc đờm dãi, dị vật, tháo răng giả, hàm giả(nếu có). Sử dụng nghiệm pháp Hiemlich nếu có dị vật.
Dùng ngón trỏ và ngón cái bóp nhẹ hai cánh mũi để đóng kín mũi bệnh nhân. Áp chặt miệng và miệng bệnh nhân thổi 2 hơi (mỗi hơi dài 1-2s). Ngoài cách hô hấp miệng – miệng nếu trên,có thể hô hấp miệng- mũi, bóp bóng qua ambu.
Chuyển bệnh nhân tới cơ sở y tế.
TH5: Ngừng tuần hoàn (điện giật, các trường hợp ngộ độc)
Cách xử trí: Phải được tiến hành ngay lập tức.
Đặt bệnh nhân nằm trên nền cứng, cổ ngửa tối đa.
Mở miệng, lấy dị vật, đờm dãi, chất nôn, làm sạch và thông thoáng đường thở.(Nghiệm pháp Hiemlich nếu có dị vật đường thở).
Hô hấp nhân tạo trực tiếp miệng- miệng hoặc miệng – mũi hoặc qua bóp bóng Ambu.
Dùng nắm đấm đấm vào vùng dưới xương ức để kích thích tim đập trở lại).
Đặt hai bàn tay chồng lên nhau, vị trí giữa xương ức và vuông góc với xương ức, dùng lực của cả cánh tay và toàn thân. Ép tim ngoài lồng ngực khoảng 60 lần 1 phút liên tục kết hợp với thổi ngạt theo tần số:30 lần ép tim -2 lần thổi ngạt. (với trẻ em có thể dùng một bàn tay hoặc 2-3 ngón tay tùy theo tuổi).
Vừa cấp cứu, vừa gọi người tới trợ giúp.
Đặt đường truyền ngay nếu có điều kiện.
Chuyển bệnh nhân tới ngay cơ sở y tế.
- Phòng ngừa tự sát:
Tăng cường giáo dục, truyền thông về tự sát. Tự sát là một cấp cứu tâm thần, có thể điều trị được. Nếu bạn hoặc người nào đó có ý nghĩ tự sát, hãy tới bệnh viện chuyên khoa tâm thần để được khám và điều trị.
Xây dựng nếp sống tích cực, lành mạnh nhất là trong lứa tuổi trẻ em và thanh thiếu niên.
Đối với các tự sát do nguyên nhân về bệnh tật, phải đảm bảo bệnh nhân được sử dụng thuốc đầy đủ, nhất là các bệnh lý cần phải điều trị thuốc duy trì. Cần lưu ý là nhóm đối tượng người nhà của những người bệnh cũng có thể tự sát.
Nhóm người già, người không nơi nương tựa, người có trí tuệ kém cần phải có người chăm sóc và theo dõi.
Theo dõi đặc biệt với các nhóm nguy cơ cao: Các bệnh rối loạn tâm thần, trẻ em, người già, người nghiện chất, nghiện cờ bạc, người đã từng có ý tường/ hành vi tự sát trước đó.
Không được bỏ sót các dấu hiệu của tự sát dù là nhỏ nhất. Nếu nghi ngờ, hãy hỏi thêm ý kiến của các bác sỹ và chuyên gia tâm lý.
Lập các đường dây nóng phòng ngừa tự sát tập thể. Chế tài bằng pháp luật đối với các hành vi tự sát kèm theo mưu đồ gây tổn thương về tính mạng và tài sản cho người khác.
Đặt biển báo, các đội cứu hộ, cứu nạn tại những địa điểm nguy cơ cao về tự sát: các tòa nhà cao tầng, các cây cầu lớn …
Trả lời