0966884051

Rối loạn ám ảnh và rối loạn hoảng sợ

Rối loạn ám ảnh và rối loạn hoảng sợ

1        Ám ảnh sợ xã hội (Lo âu xã hội)

1.1        Đặc điểm lâm sàng

Ám ảnh sợ xã hội thường bắt đầu ở tuổi thanh thiếu niên, biểu hiện sợ người khác nhìn mình chăm chú ở một nhóm người dẫn đến né tránh các hoàn cảnh xã hội. Ám ảnh sợ xã hội phổ biến đều nhau ở nam giới và nữ giới. Ám ảnh có thể kín đáo như sợ ăn uống ở nơi công cộng hoặc sợ nói trước công chúng hoặc sợ gặp người khác giới bao gồm mọi hoàn cảnh xã hội.

Sợ nôn ở nơi công cộng có thể triệu chứng rất quan trọng cho chẩn đoán quyết định.

Những ám ảnh sợ xã hội phối hợp với tự ti và sợ bị phê bình có thể bộc lộ bằng những lời phàn nàn, bị đỏ mặt, run tay, buồn nôn hoặc mót đi tiểu. Các triệu chứng này có thể tiến triển thành cơn hoảng sợ né tránh hoàn toàn cách ly xã hội.

Các yếu tố ám ảnh sợ xã hội là bền vững và các tình huống xã hội có thể gây cho bệnh nhân những khó khăn. Các tình huống xã hội gây ra một cách ổn định là một đáp ứng rối loạn lo âu ngay lập tức. Các đáp ứng này có hình thức của một cơn sợ hãi trong tình huống thuận lợi. Trẻ vị thành niên và người lớn có rối loạn lo âu thừa nhận sợ hãi của họ là quá mức và không có lý do. Ít khi gặp lo âu ở trẻ em. Nếu có, đó là tình huống xã hội hoặc chức năng bị né tránh, một số bị né tránh kéo dài đồng thời với sợ hãi.

Chỉ chẩn đoán chắc chắn khi sự né tránh, sợ hãi hoặc rối loạn lo âu có trước đó của các tình huống xã hội hoặc chức năng gây ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày hoặc nghề nghiệp hoặc cuộc sống xã hội, thậm chí bị hại do ám ảnh sợ. Ở những bệnh nhân dưới 18 tuổi, các triệu chứng cần phải bền vững ít nhất là 6 tháng, khi ám ảnh sợ xã hội xuất hiện mới được chẩn đoán.

Sợ hoặc né tránh không phải là kết quả trực tiếp của một chất hoặc một bệnh thực tổn và không giải thích được do một bệnh tâm thần khác như hoảng sợ hoặc rối loạn lo âu bị chia rẽ hoặc rối loạn sơ đồ cơ thể hoặc rối loạn nhân cách khép kín. Nếu như có biểu hiện một bệnh tâm thần hoặc một bệnh thực tổn khác, hoảng sợ hoặc né tránh không bị giới hạn do sự bó hẹp xã hội của bệnh nhân.

Trong các chức năng xã hội hoặc hoảng sợ, bệnh nhân có ám ảnh sợ xã hội sợ bị coi là có rối loạn lo âu hoặc sợ bị điên hoặc sợ bị ngốc nghếch. Bệnh nhân sợ nói trước đám đông do sợ rằng những người khác sẽ nhận thấy giọng nói run hoặc tay run của mình hoặc sợ bộc lộ lo âu quá mức khi đối thoại với người khác. Ví dụ bệnh nhân né tránh phải ăn hoặc sợ ghi chép ở nơi công cộng do sợ bị run tay.

Bệnh nhân ám ảnh sợ xã hội gần như luôn bộc lộ rối loạn lo âu trong các tình huống xã hội gây sợ như đánh trống ngực, run, vã mồ hôi, khó chịu ở dạ dày và ruột, ỉa chảy, căng trương lực cơ. Các trường hợp nặng có thể có các triệu chứng thoả mãn với tiêu chuẩn chẩn đoán xung động hoảng sợ. Đỏ mặt có thể là đặc trưng cho ám ảnh sợ xã hội. Người lớn với ám ảnh sợ xã hội thừa nhận sợ hãi là quá mức và không có lý do.

Bệnh nhân có ám ảnh sợ xã hội, thường né tránh các tình huống gây sợ, dễ có lo âu đối với áp lực trước các tình huống xã hội. Một rối loạn lo âu trước đó có thể trở thành mạnh hơn khi xuất hiện các tình huống xã hội như bệnh nhân sợ vài ngày hoặc vài tuần trước khi có tình huống xã hội xảy ra. Trong các tình huống sợ hãi có thể có những đáp ứng không tốt của rối loạn lo âu trước khi các triệu chứng lo âu xuất hiện.

Sợ hãi hoặc né tránh ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường hoặc chức năng nghề nghiệp và học tập hoặc quan hệ xã hội của bệnh nhân. Họ cũng có thể bộc lộ điều bị hại liên quan đến ám ảnh sợ.

Ví dụ: một bệnh nhân có thể sợ nói trước đám đông, không được chẩn đoán là ám ảnh sợ xã hội, nếu hoạt động này không gặp trong cuộc sống hàng ngày ở nơi làm việc hoặc lớp học. Sợ hãi không thuộc tình huống xã hội là thường xuyên ở trẻ em và trẻ vị thành niên.

Ở người dưới 18 tuổi, các triệu chứng bền vững quá 6 tháng mới đủ tiêu chuẩn chẩn đoán là ám ảnh sợ.  Có thể chẩn đoán rối loạn lo âu lan toả biệt định khi các sợ hãi liên quan đến nhiều tình huống như bắt đầu hoặc tiếp tục nói trước mặt một nhóm người hoặc gặp và nói chuyện cùng người khác giới.

Bệnh nhân ám ảnh sợ xã hội lan toả sợ cả tình huống ở nơi công cộng và tình huống xã hội. Tuy nhiên, ám ảnh sợ xã hội không liên quan đến các mặt của hoảng sợ xã hội.

Chưa đủ để chẩn đoán rối loạn lo âu lan toả khi ám ảnh sợ chỉ một số tình huống xã hội chủ yếu, nhưng không phải tất cả. Bệnh nhân có ám ảnh sợ xã hội rất có thể sẽ khó hoà nhập xã hội và có ảnh hưởng nặng nề đến nghề nghiệp.

1.2        Chẩn đoán ám ảnh sợ xã hội:

Tiêu chuẩn chẩn đoán theo ICD-10F (mã số F40.1):

Để chẩn đoán quyết định, tất cả các tiêu chuẩn sau đây cần phải đầy đủ:

a/ Các triệu chứng tâm lý, hành vi hoặc thần kinh thực vật phải là những biểu hiện nguyên phát của lo âu và không phải là thứ phát sau các triệu chứng như hoang tưởng hoặc ý nghĩ ám ảnh.

b/ Lo âu phải khu trú hay chiếm ưu thế ở các hoàn cảnh xã hội đặc biệt.

c/ Né tránh hoàn cảnh gây ám ảnh sợ phải là nét nổi bật.

Tiêu chuẩn chẩn đoán theo DSM-5 (mã số 300.23)

A. Sợ hãi hay lo âu với cường độ mạnh về một hoặc nhiều tình huống xã hội mà trong đó BN bộc lộ với người khác sự sợ hãi. Ví dụ, tương tác xã hội ( như một cuộc trò chuyện, gặp gỡ những người không quen), bị quan sát (như ăn hay uống), và thực hiện trước những người khác (ví dụ, phát biểu nơi đông người).

Lưu ý: Ở trẻ em, sự lo lắng phải xảy ra trong các tình huống tương đương và không chỉ trong tương tác với người lớn.

B. Bệnh nhân luôn lo ngại rằng những hành động mà họ sẽ thực hiên hay sự biểu hiện triệu chứng lo âu sẽ bị đánh giá tiêu cực (ví dụ, sẽ là nhục nhã hay xấu hổ; sẽ dẫn đến sự từ chối hoặc xúc phạm người khác).

C. Các tình huống xã hội hầu như đều gây sợ hãi hay lo âu.

Lưu ý: Ở trẻ em, nỗi sợ hãi hay lo âu có thể được thể hiện bằng cách khóc, ăn vạ, bất động, bám, thu hẹp lại, hoặc không nói chuyện trong các tình huống xã hội.

D. Các tình huống xã hội gây sợ hãi bị né tránh hoặc chịu đựng với lo âu và sợ hãi mãnh liệt.

E. Sợ hãi hay lo âu không tương xứng với mối đe dọa thực tế gây ra bởi tình huống và với bối cảnh văn hóa xã hội.

F. Sự sợ hãi, lo âu, hoặc né tránh là dai dẳng, thường kéo dài trong 6 tháng hoặc hơn.

G. Sự sợ hãi, lo âu, hoặc né tránh gây ra đau khổ hoặc gây suy giảm chức năng xã hội, nghề nghiệp, hoặc chức năng quan trọng khác.

H. Sợ hãi, lo âu, hoặc né tránh là không phải do tác dụng sinh lý của một chất (ví dụ, Nghiện ma túy, một thuốc) hoặc một bệnh khác.

I. Sợ hãi, lo âu, hoặc né tránh không phải là triệu chứng của một rối loạn tâm thần, như rối loạn hoảng sợ, rối loạn dạng cơ thể, hoặc rối loạn tự kỷ

J. Nếu là một bệnh khác (ví dụ như bệnh Parkinson, bệnh béo phì, biến dạng từ bỏng hoặc chấn thương) thì sợ hãi, lo âu, hoặc né tránh là rõ ràng không liên quan hoặc là quá mức.

A. Sợ hãi hoặc lo âu về một đối tượng hoặc tình huống đặc biệt (ví dụ: đi máy bay, sợ độ cao, sợ động vật, sợ tiêm thuốc, nhìn thấy máu)

Lưu ý: ở trẻ em, sợ hãi hoặc lo âu có thể biểu hiện bằng khóc, cáu kỉnh, bất động, giữ chặt vật gì hoặc bám vào ai đó.

B. Các đối tượng hoặc tình huống gây ám ảnh sợ hầu hết luôn kích thích gây sợ hãi và lo âu ngay lập tức.

C. Các đối tượng hoặc tình huống gây ám ảnh sợ gây ra né tránh hoặc chịu đựng với sự sợ hãi hoặc lo âu mạnh mẽ.

D. Sợ hãi và lo âu không tương xứng với sự nguy hiểm thực sự của đối tượng hoặc tình huống gây ám ảnh sợ và bối cảnh văn hóa xã hội.

E. Sự sợ hãi, lo âu, né tránh dai dẳng, kéo dài ít nhất 6 tháng.

F. Sự sợ hãi, lo âu, né tránh dai dẳng gây đau khổ hoặc suy giảm rõ rệt chức năng xã hội, nghề nghiệp hoặc các lĩnh vực quan trọngkhác.

G. Rối loạn không do rối loạn tâm thần khác bao gồm các triệu chứng sợ hãi, lo âu, né tránh các tình huống liên quan đến các các triệu chứng giống RL hoảng sợ hoặc các triệu chứng mất khả năng  (như trong ám ảnh sợ khoảng trống); đối tượng và tình huống liên quan đến ám ảnh (như trong rối loạn ám ảnh cưỡng bức); nhắc lại tình huống sang chất (như trong rối loạn stress sau sang chấn); ra khỏi nhà hoặc tách khỏi người thân (như trong rối loạn lo âu bị chia cắt); hoặc các tình huống xã hội (như trong rối loạn lo âu xã hội).

2        Rối loạn hoảng sợ

2.1        Đặc điểm lâm sàng:

Rối loạn hoảng sợ là những cơn tái diễn lo âu trầm trọng, không khu trú vào bất kỳ hoàn cảnh nào hoặc tình huống đặc biệt nào và không lường trước được. Các triệu chứng thường bắt đầu đột ngột như: đánh trống ngực, đau ngực, cảm giác bị choáng, chóng mặt và cảm giác không thực (giải thể nhân cách hoặc tri giác sai thực tại). Lúc nào cũng có mối đe doạ sợ thứ phát như sợ chết, sợ bị bệnh và sợ mất tự chủ. Các cơn chỉ kéo dài vài phút với tần số rất thay đổi.

Trong hoảng sợ, bệnh nhân thấy sợ hãi, các triệu chứng thần kinh thực vật tăng lên và bệnh nhân vội vã thoát ra khỏi hoàn cảnh. Thường bệnh nhân né tránh không để cho hoàn cảnh đó lặp lại. Cơn hoảng sợ thường tiếp theo sau một nỗi lo sợ dai dẳng là sẽ có một cơn khác.

Yếu tố hoảng sợ là các cơn hoảng sợ kịch phát quá mức, tái phát, bền vững, tiếp theo sau ít nhất là một tháng không có một cơn hoảng sợ kịch phát khác. Các cơn hoảng sợ kịch phát không phải là hậu quả của một chất hoặc của một bệnh thực tổn. Cuối cùng, các cơn hoảng sợ kịch phát không giải thích được do một bệnh tâm thần như: sợ biệt định hoặc sợ xó hội hoặc rối loạn ám ảnh-cưỡng bức hoặc rối loạn stress sau sang chấn hoặc rối loạn lo âu bị chia cắt.

Có ít nhất là 2 cơn hoảng sợ kịch phát để xác định chẩn đoán. Những bệnh nhân có hoảng sợ với các cơn hoảng sợ kịch phát xuất hiện trong tỡnh huống thuận lợi và ổn định. Tính thường xuyên và mức độ nặng của các cơn hoảng sợ kịch phát rất khác nhau: hoặc thỉnh thoảng (1 lần/ tuần) hoặc thường xuyên (hàng ngày/1tuần liền). Nhưng lại có nhiều tuần hoặc nhiều tháng không có cơn hoảng sợ kịch phát hoặc cơn hoảng sợ thưa hơn (2 lần/1tháng) trong thời gian nhiều năm.

Liên quan tới các cơn hoảng sợ tiếp theo là hành vi né tránh, có thể thoả món cỏc tiờu chuẩn ám ảnh sợ khoảng trống. Khi đó được chẩn đoán là hoảng sợ có ám ảnh sợ khoảng trống. Bên cạnh các cơn hoảng sợ, nhiều bệnh nhân có rối loạn lo âu, nhưng không phải là trung tâm trong các tình huống.

Trong một số trường hợp, mất hoặc gián đoạn mối liên hệ như rời khỏi nhà hoặc ly dị là yếu tố để khởi phát hoặc tái phát cơn hoảng sợ. Nhiều bệnh nhân mất tự tin và phải đi khám bệnh thường xuyên.

Rối loạn trầm cảm điển hình thường gặp khoảng 50-60% ở bệnh nhân có hoảng sợ. Gần 1/3 số bệnh nhân trên có cả 2 loại rối loạn, rối loạn trầm cảm là điều kiện thuận lợi cho việc bùng phát các cơn hoảng sợ. Khoảng 2/3 số còn lại, rối loạn trầm cảm có đồng thời hoặc sau cơn hoảng sợ.

Một số bệnh nhân có liên quan đến sử dụng rượu hoặc thuốc giải lo âu có thể có các rối loạn lo âu như: ám ảnh sợ xã hội (15-30%), ám ảnh-cưỡng bức (8-10%), ám ảnh sợ biệt định (10-20%) trong số bệnh nhân có hoảng sợ. Tỷ lệ hoảng sợ trong cả cuộc đời là khoảng 1,5-3,5% và tỷ lệ trong 1 năm là khoảng 1-2%. Gần 1/3-1/2 số bệnh nhân hoảng sợ được chẩn đoán ở các khoa lâm sàng khác nhau chứ không chỉ ở khoa tâm thần. Ở phụ nữ gặp nhiều hơn nam giới.

2.2. Chẩn đoán rối loạn hoảng sợ:

Tiêu chuẩn chẩn đoán theo ICD-10F (mã số 41.0):

Để chẩn đoán quyết định các cơn lo âu thần kinh thực vật trầm trọng xảy ra trong thời gian khoảng một tháng:

a/ Trong hoàn cảnh không có nguy hiểm về mặt khách quan.

b/ Không khu trú vào hoàn cảnh được biết trước và không lường trước được.

c/ Giữa các cơn bệnh nhân thoát khỏi một cách tương đối các triệu chứng lo âu (mặc dù lo âu đi trước là phổ biến).

Tiêu chuẩn chẩn đoán theo DSM-5 (mã số 300.01):

A. Tái diễn các cơn hoảng sợ một cách đột ngột. Cơn hoảng sợ biểu hiện bằng sự sợ hãi hoặc mạnh mẽ xuất hiện bất ngờ đạt đến cường độ đỉnh trong vòng vài phút, trong thời gian đó có  4 (hoặc nhiều hơn) các triệu chứng sau:

Lưu ý: Sự xuất hiện đột ngột của các triệu chứng có thể xảy ra từ một trạng thái bình tĩnh hoặc lo âu

1. Mạch nhanh, Đánh trống ngực.

2. Vã mồ hôi.

3. Run hoặc lắc.

4. Cảm giác khó thở hoặc thở nông.

5. Cảm giác nghẹt thở( Thiếu oxy).

6. Đau hoặc khó chịu ở ngực.

7. Buồn nôn hoặc đau bụng.

8. Cảm giác chóng mặt, mất thăng bằng hoặc ngất.

9. Lạnh cóng hoặc nóng bừng

10. Dị cảm (tê bì hoặc ngứa).

11.Giải thể thực tế hoặc giải thể nhân cách.

12. Sợ mất kiểm soát hoặc phát điên.

13. Sợ chết.

Lưu ý: Các triệu chứng mang yếu tố văn hóa (Ví dụ: ù tai, đau cổ, đau đầu, la hét ko kiểm soát, khóc) có thể được nhận biết. Các triệu chứng này không nên được tính là 1 trong 4 triệu chứng cần thiết (để chẩn đoán).

B. Có ít nhất 01 cơn hoảng sợ trong vòng 01 tháng với 01 (hoặc nhiều hơn) trong 2 các biểu hiện sau:

1. Lo một cách dai dẳng sợ tái phát các cơn hoảng sợ tiếp theo hoặc hậu quả của nó (ví dụ: mất kiểm soát, đau tim hoặc phát điên).

2. Có sự thay đổi rõ ràng, theo hướng kém thích ứng, hành vi liên quan đến cơn hoảng sợ (ví dụ: hành vi né tránh các cơn hoảng sợ như tránh tập thể dục hay tránh tình huống không quen thuộc).

C. Rối loạn không phải do tác động sinh lý của một chất (ví dụ: lạm dụng ma túy hoặc một thuốc) hoặc bệnh lý cơ thể khác (ví dụ: cường giáp, bệnh lý tim phổi).

D. Rối loạn không phải là một bệnh tâm thần khác gây nên (ví dụ: cơn hoảng sợ không xảy ra trong tình huống sợ xã hội như trong rối loạn ám ảnh sợ xã hội; trong đáp ứng với đối tượng ám ảnh sợ ranh giới hoặc tính huống như trong ám ảnh sợ biệt định; trong đáp ứng với ám ảnh như rối loạn ám ảnh cưỡng bức; trong đáp ứng với hồi tưởng về hoàn cảnh chấn thương như trong rối loạn stress sau sang chấn; hoặc đáp ứng với sự chia cắt khi bị tách khỏi người thân trong rối loạn lo âu bị chia cắt).

3        Ám ảnh sợ biệt định

3.1        Đặc điểm lâm sàng

Đó là những ám ảnh sợ khu trú vào các tình huống đặc biệt như: sợ gần đông vật, sợ độ cao, sợ sấm, sợ bóng tối, sợ đi máy bay, sợ nơi kín, sợ bị các bệnh hiểm nghèo,… Hoàn cảnh phát sinh bệnh rất kín đáo và có thể gây ra hoảng sợ như : ám ảnh sợ khoảng trống hoặc ám ảnh sợ xã hội.

Yếu tố ám ảnh sợ biệt định được xây dựng trên nền một sợ hãi mãnh liệt, bền vững và rõ rệt. Khi có các kích thích ám ảnh sợ sẽ dễ dàng gây ra đáp ứng lo âu.

Chẩn đoán chắc chắn nếu như né tránh sợ hãi hoặc lo âu trước đó của kích thích ám ảnh sợ gây trở ngại rõ rệt đến cuộc sống hàng ngày, đến hoạt động nghề nghiệp và xã hội. Ở bệnh nhân dưới 18 tuổi, các triệu chứng cần bền vững ít nhất là 6 tháng mới có thể chẩn đoán chắc chắn.

Lo âu ổn định khi có các kích thích ám ảnh sợ. Mức độ lo âu và sợ hãi là khác nhau cả về mức độ tiếp cận với các kích thích. Cường độ của sợ có thể không giống nhau khi tiếp xúc với kích thích gây sợ hãi.

Các ám ảnh sợ sự vật hoặc tình huống báo trước là rất hay gặp. Nhưng trong nhiều trường hợp, mức độ biểu hiện không đủ để đặt chẩn đoán, nếu như ám ảnh sợ không cản trở rõ rệt sinh hoạt của bệnh nhân.

Ví dụ như một người sợ rắn và sợ tăng lên khi có rắn, không được chẩn đoán là ám ảnh sợ biệt định nếu như sống trong một vùng không có rắn, không có ảnh hưởng của sợ rắn và sợ rắn không gây khó khăn cho bệnh nhân.

3.2        Chẩn đoán ám ảnh sợ biệt định

Tiêu chuẩn chẩn đoán theo ICD-10F (mã số F40.2):

Để chẩn đoán quyết định, phải có đầy đủ các các triệu chứng sau:

a/ Các triệu chứng tâm lý hoặc thần kinh thực vật phải là những biểu hiện nguyên phát của lo âu mà không phải thứ phát sau các triệu chứng như hoang tưởng hoặc ý nghĩ ám ảnh.

b/ Lo âu phải khu trú vào sự có mặt của đối tượng hay tình huống đặc biệt gây ám ảnh sợ.

c/ Né tránh hoàn cảnh gây ám ảnh sợ bất cứ khi nào có thể.

Tiêu chuẩn chẩn đoán theo DSM-5

A. Lo âu, sợ hãi một sự vật, tình huống xác định (ví dụ, như sợ đi máy bay, sợ độ cao, sợ động vật, sợ tiêm thuốc, sợ nhìn thấy máu).

Lưu ý: ở trẻ em, sợ hãi hoặc lo âu có thể biểu hiện dưới dạng gào thét, khóc lóc

B. Sự vật, tình huống ám ảnh sợ luôn luôn nhanh chóng gây ra lo âu hoặc sợ hãi.

C. Bệnh nhân luôn tìm cách né tránh hoặc chịu đựng sự vật, tình huống như vậy một cách lo lắng hoặc sợ hãi mạnh.

D. Sự sợ hãi, lo lắng hoàn toàn không tương thích với sự nguy hiểm mà sự vật hoặc tình huống đem lại hoặc không tương thích từ góc độ văn hóa xã hội.

E. Sợ hãi, lo âu hay né tránh kéo dài một cách dai dẳng, thường kéo dài đến 6 tháng hoặc hơn.

F.  Sợ hãi, lo âu hay né tránh gây ra mệt mỏi, suy nhược đáng kể hoặc ảnh hưởng rõ rệt đến các hoạt động xã hội, nghề nghiệp và những lĩnh vực hoạt động quan trọng khác.

G.  Rối loạn không phải là các triệu chứng của các rối loạn tâm thần khác như: sợ hãi, lo âu hay né tránh trong những tình huống giống với rối loạn hoảng sợ; ám ảnh sợ khoảng trống; rối loạn ám ảnh-cưỡng bức; rối loạn stress sau sang chấn; lo âu chia cắt; ám ảnh sợ xã hội.

4         Rối loạn ám ảnh-cưỡng bức

Trong DSM-5, rối loạn ám ảnh cưỡng bức được xếp thành mục riêng, tách khỏi rối loạn lo âu.

4.1        Đặc điểm lâm sàng:

Yếu tố xác định rối loạn ám ảnh-cưỡng bức là các ám ảnh hoặc cưỡng bức tái diễn. Bệnh nhân thừa nhận rằng ám ảnh-cưỡng bức là quá mức và không giải thích được. Các ám ảnh và cưỡng bức phải đủ tiêu chuẩn và đủ thời gian (từ 1 giờ đến 1 ngày). Rối loạn không phải là hậu quả của một chất hoặc một bệnh thực tổn.

Ám ảnh là ý nghĩ, ý tưởng hoặc sự tưởng tượng biểu hiện không chắc chắn và gây ra rối loạn lo âu hoặc mất chức năng rõ rệt. Nội dung của ám ảnh rất lạ lùng, không chịu sự kiểm soát của bản thân bệnh nhân và không phải là ý nghĩ mà bệnh nhân muốn có. Bệnh nhân có đủ khả năng thừa nhận ám ảnh là sản phẩm của hoạt động tâm thần và không phải là do bị ép buộc từ bên ngoài (ý nghĩ bị áp đặt). Ý nghĩ ám ảnh thường gặp là ý nghĩ lặp đi lặp lại như bệnh truyền nhiễm lây do bắt tay với người bệnh, ý nghĩ nghi ngờ như cửa không khoá, ý nghĩ mệnh lệnh đặc biệt, kích động hoặc xung động khủng khiếp như đã làm một đứa trẻ bị đau và ý nghĩ tình dục như các ý nghĩ đồi truỵ.

Cưỡng bức hoặc ám ảnh không đơn giản là lo lắng quá mức về một vấn đề trong thực tế cuộc sống như khó khăn về tài chính. Bệnh nhân có ý nghĩ ám ảnh thường bỏ qua, ngăn chặn ý nghĩ hoặc cưỡng bức bằng một ý nghĩ khác hoặc hoạt động khác.

Hành vi cưỡng bức là hành vi lặp đi lặp lại như rửa tay, cầu nguyện và đếm những hàng gạch hoặc im lặng với mục đích là giảm bớt các rối loạn lo âu, căng thẳng, nhưng không tạo ra được một sự thoải mái. Bệnh nhân cảm thấy phải thực hiện hành vi cưỡng bức để giảm bớt sự căng thẳng hoặc ngăn chặn một số sự kiện hoặc tình huống khiếp sợ.

4.2        Chẩn đoán rối loạn ám ảnh-cưỡng bức

Tiêu chuẩn chẩn đoán theo ICD-10F (mã số F42.1):

Các triệu chứng ám ảnh phải có những đặc tính sau:

a/ Chúng phải được bệnh nhân thừa nhận là ý nghĩ hay xung động riêng của bản thân họ.

b/ Phải có ít nhất một ý nghĩ hay động tác mà bệnh nhân còn kháng cự lại một cách vô hiệu, mặc dù có thể có những ý nghĩ và động tác khác mà bệnh nhân không còn kháng cự lại.

c/ Ý nghĩ về sự tiến hành động tác phải được bệnh nhân cảm thấy không thú vị (chỉ đơn giản một sự giảm nhẹ căng thẳng hoặc lo âu thì không được coi là sự thích thú theo ý nghĩa này).

d/ Những ý nghĩ, hình ảnh hoặc xung động phải tái diễn một cách không thích thú.

Tiêu chuẩn chẩn đoán theo DSM-5 (mã số 300.3):

A. Có ám ảnh,hành vi cưỡng bức hoặc cả hai:

Ám ảnh được xác định bởi (1)và (2):

(1) Có những ý nghĩ, thôi thúc hoặc hình ảnh về sự việc đã trải qua dai dẳng, bắt uộc và không hề muốn, và trong hầu hết các trường hợp gây ra lo âu và suy nhược rõ ràng.

(2) Có xu hướng lờ đi hoặc nén lại những ý nghĩ, thôi thúc, hình ảnh đó, hoặc trung hòa chúng bởi những suy nghĩ hoặc hoạt động khác (ví dụ, bằng cách thực hiện cưỡng bức).

Cưỡng bức được xác định bởi (1) và (2):

(1) Hành vi lặp đi lặp lại (ví dụ: rửa tay, xắp xếp, kiểm tra) hoặc hoạt động tâm thần (ví dụ cầu nguyện, đếm, nhẩm lặp lại vài từ),người bệnh cảm thấy bắt buộc phải thực hiện để đáp ứng với ám ảnh hoặc theo một nguyên tắc phải tuân thủ cứng nhắc.

(2) Những hành vi hoặc hoạt động tâm thần đó do mục đích ngăn ngừa hoặc làm giảm lo âu mệt mỏi, hoặc ngăn ngừa một số tình huống, sự việc đáng sợ. Tuy nhiên những hành vi hoặc hoạt động tâm thần đó không thực tế, hoặc là quá mức.

  • Chú ý: trẻ nhỏ có thể không có khả năng nói rõ ràng mục đích của những hành vi hoặc hoạt động tâm thần đó.

B. Ám ảnh hoặc cưỡng bức tốn nhiều thời gian (chiếm hơn 1giờ/ngày) hoặc gây nên sự suy giảm có ý nghĩa về chức năng xã hội hoặc nghề nghiệp hoặc những lĩnh vực quan trọng khác.

C. Các  triệu chứng ám ảnh – cưỡng bức không do tác động sinh lý của một chất (ví dụ lạm dụng ma túy, thuốc) hoặc những tình trạng bệnh lý khác.

D. Sự rối loạn không được giải thích tốt hơn bởi  triệu chứng của những rối loạn tâm thần khác (như lo lắng quá mức trong rối loạn lo âu lan tỏa, mối bận tâm với diện mạo trong rối loạn dạng cơ thể, khó vứt bỏ hoặc chia ly 1 vật sở hữu trong rối loạn tích trữ, giật tóc trong rối loạn giật tóc, nhéo da trong rối loạn nhéo da, lặp lại hành động không mục đích trong rối loạn vận động định hình, cách ăn uống theo nghi thức trong rối loạn ăn, mối bận tâm với các chất hoặc trò cờ bạc trong rối loạn liên quan đến chất và nghiện, lo lắng có bệnh trong rối loạn lo âu nghi bệnh, sự thôi thúc hoặc hình ảnh tưởng tượng về tình dục như trong rối loạn nhu cầu tình dục, xung động trong rối loạn hành vi và kiểm soát xung động phá hoại, ngẫm nghĩ về tội lỗi trong rối loạn trầm cảm chủ yếu, sự chèn vào suy nghĩ hoặc bận tâm về ảo giác trong phổ tâm thần phân liệt hoặc những rối loạn loạn thần khác, hoặc hành vi lặp đi lặp lại trong rối loạn phổ tự kỷ).

  • Biệt định nếu:
  • Với sự nhận thức đúng ( còn phê phán tốt): người bệnh nhận ra rằng hành vi ám ảnh cưỡng bức chắc chắn hoặc hầu như chắc chắn không đúng.
  • Với sự nhận thức kém( phê phán kém): người bệnh tin rằng hành vi ám ảnh cưỡng bức hầu như chắc chắn là đúng.
  • Với sự mất nhận thức( mất phê phán)/ niềm tin hoang tưởng: người bệnh hoàn toàn tin hành vi ám ảnh cưỡng bức là đúng
  • Biệt định nếu:
  • Liên quan rối loạn tic: người bệnh đang bị hoặc trong tiền sử có rối loạn tic.

Chia sẻ bài này đến

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *